1.TẠI NƠI ĐẶT
MỘ PHẦN
-*-
Nam mô A di đà Phật (3 lần)
Tín chủ con kính lạy:
- Chín phương Trời, năm
phương Đất, mười phương chư Phật;
- Ngài Bản cảnh Thành
hoàng chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa; ngài Đông trù Tư mệnh
Táo phủ thần quân, ngài Bản gia Thổ địa Long mạch Tôn thần, ngài Ngũ phương,
Ngũ Thổ, Phúc đức Chính thần;
- Các ngài: Tiền Chu
Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ; Quan Dẫn hồn Sứ giả Ngũ đạo
Tướng quân, quan Đường xứ Thổ địa Chính thần cùng liệt vị tôn thần cai quản ở
trong xứ nghĩa địa nhân dân thôn
An Hồ, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai;
- Ngài Đương cai Giáp Thìn
niên: Lý Thành Đại tướng quân; Sở Vương Hành Khiển, Hỏa Tinh Hành Binh chi
Thần, Biểu Tào Phán quan;
- Các Ngài Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần.
Trưởng
nam phái
Út, Chi Hai họ Lương gốc xã Chiến Thắng, huyện An lão, thành phố Hải Phòng đã
chuyển cư lên Lào Cai từ năm 1964 tiếp Kính lạy Hương linh: Tổ tỉ Đặng Thị Chỉ, Hiển khảo Lương Đức
Thân.
Hôm
nay Chủ Nhật ngày 12/01/2025,
nhằm ngày 13/Chạp
năm Giáp Thìn, năm thứ 80 của nước CHXHCN Việt
Nam, Trưởng Nam cùng mẫu thân, các em, các cháu vâng theo lệ cũ,
Tại
khu mộ tổ tiên của gia đình trong nghĩa địa nhân dân thôn An Hồ, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh
Lào Cai,
Nhân
ngày tưởng niệm Hiển khảo Lương Đức Thân, tín chủ con thành
tâm sắm lễ: quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên
kính mời chư vị Tôn thần lai lâm chiếu giám chứng kiến lời khấn cầu rằng:
Gia đình chúng con có 2 ngôi mộ đã được
quy tập là nơi cát táng của:
- Tổ Tỉ Đặng Thị Chỉ hiệu Diệu Cầm sinh
năm Canh Dần 1890 tại bản quán, tạ thế ngày 22/12/1982, tức là ngày 08 tháng Một
năm Nhâm Tuất; Mộ phần đã quy tập trong Lương Đức mộ viên ở nghĩa địa nhân dân
thôn An Hồ ở km 36 Quốc lộ 70 thuộc địa phận xã Phong Niên huyện Bảo Thắng từ
ngày 20/12/2001 (tức 06 tháng Một Tân Tỵ)
- Hiển khảo Lương Đức Thân (hiệu…….)
sinh năm Quý Hợi 1922, tạ thế lúc 2 giờ 5 phút sáng ngày Thứ Ba 21/01/1997 (tức là ngày 13 tháng Chạp năm Bính Tí);
Cát táng, đặt tại nghĩa địa nhân dân thôn An Hồ, xã Phong Niên huyện Bảo Thắng
từ ngày 20/12/2001 (tức 06 tháng Một Tân
Tỵ).
Vậy chúng con xin kính cáo các đấng Thần linh, Thổ công, Thổ phủ Long Mạch, Tiền Chu
Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ và Chư vị Tôn thần cai quản
trong khu vực này được hay, kính mời
chư Thần về đây chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho các Hương linh luôn vững chắc mộ phần, yên ổn cốt xương, siêu thoát
vong hồn. Cúi xin các vị phù
hộ độ trì cho tín chủ chúng con toàn gia mạnh khỏe an bình, bốn mùa không tật
ách, tám tiết hưởng thái bình.
Kính
nghe: công ơn, nền đức,
gây dựng cơ nghiệp của Lương tộc lịch đại tổ tiên là to lớn, chạnh lòng nghĩ
đến âm phần ở nơi đồng đất vắng vẻ, chúng con thành tâm sắm lễ, quả cau lá
trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước mộ, kính mời chân
linh Hiển khảo Lương Đức Thân, Tổ tỉ Đặng Thị Chỉ lai lâm hiến hưởng.
Chúng con xin phép được quét dọn phần mộ cho được dầy bền, tu sửa minh đường
hậu quỷ cho thêm vững chắc. Nhờ ơn Phật Thánh phù trì, đội đức trời che đất
chở, cảm niệm Thần linh phù độ, khiến cho được chữ bình an, âm siêu dương thái.
Con cháu chúng con xin vì chân linh lịch đại tổ tiên Phát nguyện tích đức tu
nhân, làm duyên, làm phúc cúng dâng Tin Bảo, giúp đỡ cô nhi quả phụ, tế bần cứu
nạn, hiếu thuận tông nhân để lấy phúc này hướng về Tiên Tổ.
Cúi xin linh thiêng chứng giám, thụ
hưởng lễ vật, phù hộ độ trì con cháu, qua lại soi xét cửa nhà. Che tai cứu nạn,
ban tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi. Độ cho gia đạo hưng long,
quế hòe tươi tốt, cháu con vinh hưởng lộc trời, già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.
Chúng con Đồng xin các
quan ngài cai quản nơi đây mở lượng hải hà, quan Sứ giả dẫn đường, bố cáo cho
các ty mọi nơi thuộc hạt biết, không ai ngăn cản cho vong hồn được nhận lĩnh lễ
vật an ổn ở nơi mộ phần, khiến cho vong âm, người dương đều được hưởng phúc
lạc;
Lại xin đưa vong hồn về trước gia đường trong húy
kị Hiển khảo cũng như giỗ chạp, Tết, tiết, để cho con cháu phụng sự, báo đáp
thâm ân, tỏ lòng hiếu kính.
Âm dương cách trở, bát
nước nén hương, tâm nguyện lòng thành, lễ bạc tiến dâng, cúi xin chứng giám,
phù hộ độ trì.
Cẩn cốc!
2. TẠI GIA TỪ
-*-
Kính
nghe: Người ta sinh ra
có cha mẹ, ông bà nên cháu con không quên ngày giỗ kị, bởi thế:
Hôm
nay Chủ Nhật ngày 12/01/2025,
nhằm ngày 13/Chạp
năm Giáp Thìn, năm thứ 80 của nước CHXHCN Việt
Nam, là ngày chính kị Hiển khảo Lương Đức Thân (hiệu…….), tạ thế lúc 2
giờ 5 phút sáng ngày Thứ Ba 21/01/1997 (tức
là ngày 13 tháng Chạp năm Bính Tí); Mộ phần đã Cát táng, đặt tại NĐND thôn
An Hồ, xã Phong Niên huyện Bảo Thắng từ ngày 20/12/2001 (tức 06 tháng Một Tân Tỵ).
Tại
gia từ ở xóm An Phong, thôn An Hồ, Phong Niên, Bảo Thắng, Lào Cai,
Tín
chủ con Lương Đức Mến
tuổi Ất Mùi, SN 1955; Là Trưởng Nam của Lương gia gốc Phương Hạ, Chiến Thắng,
An Lão, Hải Phòng, chuyển quán hiện ở: xóm An Phong, thôn An Hồ, xã Phong Niên,
huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai cùng Mẫu thân, các em, các con, các cháu tụ họp
tại Gia đường
Kính lạy: Chín phương Trời, Năm phương Đất, Chư Phật mười phương;
Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần; Đương cai Giáp Thìn
niên: Lý Thành Đại tướng quân; Sở Vương Hành Khiển, Hỏa Tinh Hành Binh chi
Thần, Biểu Tào Phán quan; các
ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài
Bản gia Táo quân: Đông trù Tư mệnh Táo phủ thần quân, Thổ địa Long mạch Tôn
thần, Ngũ phương, Ngũ Thổ, Phúc đức Chính thần và Chư vị thần linh cai quản xứ
An Phong.
Trưởng
Nam Lương gia Kính lạy:
Hương linh Hiển khảo Lương Đức Thân; Kính lạy Tằng tổ khảo: Lương Đức Trinh, Tổ
tỉ: Nguyễn Thị Lễ; Tổ bá phụ khảo: Lương Đức Quýnh; Tổ cô: Lương Thị Mẹt; Tổ
khảo Lương Đức Trính, Tổ tỉ Đặng Thị Chỉ;
cùng các vị Nội Ngoại tiên linh, Thúc, Bá, Cô, Dì, Đệ, Huynh, Tỉ, Muội,
các vong linh phụ thờ, thưa trình:
Nhân
ngày húy kị lần thứ 27
của Hiển khảo, Chúng con sắm lễ: quả
cau lá trầu, hương hoa trà quả, nước, rượu mã vàng, cơm canh rau thịt; thắp nén
tâm hương, dâng lên trước án, thành tâm kính mời: Ngài Đương Niên Chi Thần,
Đương cai Thái Tuế chí đức tôn thần; Ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại
Vương, Bản xứ Thần Linh Thổ Địa; Ngài Định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa
long mạch Tôn thần và tất cả các vị Thần Linh cai quản ở trong khu vực này;
Chúng con tiếp kính thỉnh Hương linh Hiển khảo, Lương tộc lịch đại tổ tiên,
các bậc phụ thờ theo tiên tổ cùng các vị Tiền chủ, Hậu chủ và các vị Hương linh
khai mở đất này, lẩn khuất quanh đây, các linh hồn chiến sĩ trận vong vì nước,
các oan hồn uổng tử không nơi nương tựa, các hài nhi yểu mệnh xin cùng giáng
lâm trước án, thụ hưởng lễ vật, Chứng minh lời khấn nguyện của cháu con:
Hôm
nay:
Trời sang Xuân: nhìn cháu con ơn kẻ
trồng cây; Đất cuối xóm, ngắm cơ ngơi nhớ người khai quyết.
Nhành hoa tươi với mâm cỗ đơn sơ; Nén
Tâm nhang dâng hương linh tiên liệt.
Nhớ
tiên linh xưa :
Úc Giang tưới đất địa linh; Tượng Sơn
sinh người nhân kiệt.
Quý Hợi ra đời khi ách đô hộ phủ khắp
xóm làng; Sớm trải khó khăn bởi cảnh nhà khốn khó.
Cha hết ra mỏ lại xuống tầu tìm kế tha
phương; Mẹ vừa xáo xén kiêm gánh gồng quanh vất vả.
Thủa ấu thơ lúc cắt cỏ chăn trâu, lúc đi
ở trông em; Niềm vui, sự học khi trăng mờ, trăng tỏ.
Buổi cờ sao, tham gia chẳng quản ngại
khó khăn; Ngày kháng chiến, hoạt động đâu kể gì sương gió.
Đón Hoà bình mở lớp Bình dân; Vui Hợp
tác chỉnh trang xóm ngõ.
Hôn phối tăng tình thân Phương Lạp - Cốc
Tràng; 10 bận gieo được gặt 7 lần biết bao gian khó.
Do ở quê đất chật người đông, năm 1964
phải đưa gia đình rời bỏ đất chôn ra, lên chốn biên cương, thực thi kế hoạch
khai hoang rừng rú.
Lại những ngày tay trắng khai cơ chặt
cây mở lối, san núi, be bờ, dạ luôn hướng tới tương lai; Qua bao bận chí bền
vượt khó, chiếu đất màn trời, vỡ ruộng, dựng nhà lòng vẫn nhớ về đất Tổ.
Nơi quê mới, mấy nhà chung mái ấm, lo
dạy trẻ, chăm già; Chốn biên thùy, 12 hộ chí gan bền, quyết gắng công vượt khó.
Một thời khai hoang, muỗi độc rừng
thiêng; Mấy bận xây nền, đói ăn vất vả.
Với bà con lo cái ăn, cái mặc khởi
nghiệp vươn mình; Cùng cháu trai mở lớp Vỡ lòng ra công dạy dỗ.
Song thân tần tảo sớm khuya; Đàn con học
hành gắng cố.
An Phong ngày một chuyển mình; Gia đình
qua thời khốn khó.
Trong hoàn cảnh: em mất, cháu hi sinh; Chốn
dương trần mình chống đỡ.
Tháng 2 năm 79 tái diễn chiến tranh; Nhà
cháy, vườn hoang lại thêm tân khổ.
Con: đứa đi học, đứa tòng quân, đứa ở
nhà vẫn tuổi dại thơ; Hai tay trắng lập lại cơ đồ mơ ngày hoan lộ.
Ngày tái lập Lào Cai, con cái đến lúc trưởng
thành; Buổi hòa bình toàn quốc cảnh nhà qua thời khốn khó.
Giữa những ngày Vợ về quê giỗ đấng sinh
thành; Chẳng ốm đau, Người ra đi không lời di chú.
Thế
mới hay:
Để có ngày phú quý, bao công sức đổ
xuống đất này; Vì sự nghiệp mai ngày, biết bao lần vượt khó.
Quê hương đổi mới nhờ địa lợi mà bát
ngát màu xanh; Toàn gia phát huy lấy nhân hoà để đạp lên sóng gió.
Đến
hôm nay:
7 trái xưa nay thành 7 gia đình dẫu chưa
giầu cũng không nỗi bần hàn; 24 cháu đứa sĩ quan, đứa kĩ sư, đứa giáo viên xin
kính cáo tiền nhân được rõ.
Tuổi trên Trăm mẫu thân con vẫn khoẻ
mạnh, tinh anh; Chồi lan quế cụ có 23 chắt nội ngoại, gái trai đầy đủ.
Riêng năm nay người thêm 2 chắt và sắp
sẽ tăng thêm, Kính cáo người hay và xin vào sổ họ.
Dẫu còn nhỏ chưa thành “Vọng tộc danh gia”
Cũng đã được trong làng ngoài huyện tin yêu ngưỡng mộ.
Gốc Tử phần tân tạo Từ đường; Nơi Nghĩa
địa đẹp mồ tiên tổ.
Tu sửa ngôi gia; Chỉnh trang Phần mộ.
Mừng thay mọi việc Lạc thành; Vui bấy sự hoàn tu bổ!
Nhớ người góp công sửa chỗ đi về; Ghi
người công đức xây nơi thờ tự.
Mộ phần tu chỉnh, nghìn thu cựu tích tô
bồi; Tự sở phong quang, năm Phái cơ ngơi minh lộ.
Gia sử chỉnh tu; Phả đồ cập độ.
Nghe Chúc văn, lưu công đức muôn
đời; Dõi sơ đồ, rõ quế hòe trăm nụ.
Sưu tầm tài liệu, thi văn tuyển trạch, phụ
lục dồi dào; Bổ túc di dung, thế thứ phân minh, Phái Chi đầy đủ.
Đúng
là:
Tu nhân, tích đức, Phật đền cho; Khổ tứ,
lao tâm, Trời chẳng phụ.
Trải lúc cơ trời biến cải, dù buổi thái
bình hay cơn binh lửa, sức âm phò quả đã vô cùng; Qua tuần cuộc thế đổi thay,
dù nơi đất khách hoặc chốn quê nhà, ơn mặc trợ mỗi ngày mỗi tỏ.
Đất lành người đảm, đời này sang đời nọ,
thụ hưởng hồng ân; Nhân tốt quả xinh,
lớp trước tiếp lớp sau, đượm nhuần phúc thọ.
Dẫu đã hướng đi lên; Còn muôn điều thách
đố.
Khắp tứ phương: xuôi, ngược, thị, thôn;
Qua bách nghệ: sĩ, nông, công, trí.
Đường phấn đấu chí quyết ắt thành;
Nghiệp khoa cử đã thi là đỗ.
Nhớ lời xưa dạy: Uống nước phải nhớ
nguồn, hưởng trái thơm nhớ ơn người trồng; Yên vui đầm ấm chẳng quên ngày
cùng kiết.
Bởi thế cho nên: Nhân ngày Chính kị, ngưỡng vọng Tôn linh,
hiếu kính tỏ lòng; Gặp buổi thiên thời, nhớ thủa cơ hàn, tâm thành bái biệt.
Toàn
gia xin:
Sắm hương, nến, trà, trầm, rượu, cau,
trầu, quả hoa vâng đúng lệ xưa; Bầy muối, xôi, gạo, cá, gà, canh, vàng, mã tuân
theo tuần tiết.
Thắp nén tâm nhang, lễ bạc lòng thành,
cúi xin thấu biết.
Thành tâm kính mời: Chư Phật, Thần,
Thánh, các bậc Tiên linh cùng Hiển khảo; Kính thỉnh giáng lâm trước án, xét xoi
chứng giám, cùng là nạp quyết.
Toàn gia nguyện: Rèn chữ Hiếu, tích
điều Liêm dạy con cháu mãi dõi noi
theo; Mở lòng Nhân, trồng cây Đức giữ nếp nhà vững bền niên nguyệt.
Để luôn luôn: Già mạnh khoẻ bình an, lộc
tài vượng tiến, sở cầu như nguyện, mọi việc hanh thông; Trẻ điều lành sớm đến,
điều dữ mau qua, thêm của thêm người, thẳng đường tiến bộ.
Bé bú mớm hay ăn chóng lớn, luôn gặp vía
lành; Người học hành mạnh khỏe chăm ngoan, đã thi là đỗ.
Con
cháu nay:
Nhớ hiển khảo, bát cơm, quả trứng, chén
nước, nhành hoa; Thành tâm cầu Cha về trong vòng tay thân thiết.
Lòng thành cầu cho anh linh người an
giấc ngàn thu; Tâm sáng mong sao gia sự bình yên bát tiết.
Xóm làng ơn, mong phù hộ giầu mạnh yên
bình; Cháu con nhớ, quyết noi gương xây vững vàng nhiệt huyết.
Sau tuần cúng lễ:
Khi hương đã tàn: vàng, mã, áo, quần
thiêu hóa gửi xuống cõi âm; Lễ vật phẩm thừa: xôi, rượu, canh, thịt, cháu con
thụ lộc.
Văn khấn đôi dòng; Tâm nhang một nén.
Giãi
tấm lòng thành, Cúi xin minh tỏ!.
-Cẩn cáo-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!