[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


13 tháng 10 2023

Tìm hiểu về việc thờ CỬU HUYỀN THẤT TỔ

Xem Film cổ trang nhiều ai cũng thấy có từ “Tru di Cửu tộc” còn trong thờ cúng lại cần biết đến “Cửu huyền Thất tổ”. Sinh thời phụ thân tôi chưa giảng giải ý nghĩa cụm từ này cho nghe. Nay hỏi các bậc cao niên trong họ chẳng ai tường, mỗi người giảng một cách. Đành tự tìm hiểu lấy.

1. Về mặt NGỮ NGHĨA:

1.1. Trước hết cần để ý rằng Cửu huyền (H: 九玄, A: The nine degrees of relationships, P: Les neuf degrés de parentés) thường gắn với Cửu tộc: (H: 九族, A: The nine families, P: Les neuf familles) và ngược lại. Như thế, “cửu huyền” là bà con chín đời, còn “cửu tộc” là chín họ.

Phương Tây, người ta chỉ có từ phân biệt rõ 3 thế hệ là: Cha (Fathe), Bản thân  (I) và Con (Chinld)) cùng lám là 5 thế hệ tức thêm nữa Ông (bố của Cha, Grandfather) và Cháu (Grandchild, Con của con). Người phương Đông, đặc biệt là người Việt có từ chỉ tôn ti đến 9 thế hệ, gồm: kỵ , cụ , ông , cha, MÌNH , con , cháu , chắt 曾孫, chút 玄孫. Trong đó, cần chú ý:

Tổ tông (H: 祖宗, A :  The ancestors, P: Les ancêtres) là tổ tiên của dòng họ.

Tổ khảo (H : 祖考, A : Patrimony, P : Le patrimoine) là ông cha đã chết, tức là Tổ tiên nhưng thực tế thường dùng chỉ Ông nội đã mất.

Tổ phụ - Tổ mẫu (H: 祖父 - 祖母, A: Grandfather - Grandmother, P: Grand-père - Grand-mère) là Ông nội (còn có nghĩa là ông cha đời trước, tức là tổ tiên), Bà nội.

1.2. Cửu tộc hiểu đơn giản là chín họ, kể từ Cao Tổ 高祖 qua bản thân đến cháu thuộc Huyền tôn玄孫 thành 9 đời. Khi hôn nhân tiến bộ (đối ngẫu, một vợ một chồng), con đã biết rõ cha là ai thì xã hội chuyển sang thời Phụ hệ thay tổ chức Mẫu hệ là tổ chức xã hội loài người ban đầu. Khi đó, con theo họ cha.

Theo thời gian, người cùng họ càng ngày càng đông, dòng máu càng ngày càng pha loãng, lại ở xa cách nhau nên mới đặt ra chế độ Tông pháp 宗法, để dễ tập hợp những người cùng trong một họ. Từ Tông pháp đặt ra Cửu Tộc, căn cứ ở dòng huyết tộc, lấy xa gần làm bà con thân sơ theo trực hệ và bàng hệ. Cụ thể chín họ có thể hiểu:

- Theo Trực hệ 直系: người trong họ Cha gồm bản thân ngược lên trên đến Cao Tổ 4 đời, xuôi xuống dưới đến Huyền tôn 4 đời.

- Theo Bàng hệ 傍系: từ bản thân suy ngang ra đến anh em ba tầng, gồm cả nội ngoại sẽ là:  Ông ngoại,  Bà ngoại,  Con dì,  Cha vợ,  Mẹ vợ,  Con cô,  Con chị em gái, Cháu ngoại  cùng Bản thân mình.

Phối hợp Trực hệ và Bàng hệ, những người trong 9 họ với bản thân có thể kể ra gồm: Trực hệ và Bàng hệ, những người bà con thân thiết trong 9 họ có thể kể ra như sau: Cha ruột; Mẹ ruột; Cha vợ (hay Cha chồng); Mẹ vợ (hay Mẹ chồng); Vợ (hoặc Chồng) của Bản thân ; Anh chị ruột;  Em ruột trai hay gái; Con và Cháu. Đây chính là những mối quan hệ cần nắm khi tổ chức tang lễ, cúng giỗ.

1.3. Cửu huyền thất tổ (H: 九玄七祖, A: The ancestors of nine degrees in direct line, P: Les ancêtres de neuf degrés en ligne directe) có nhiều cách kiến giải khác nhau. Dễ hiểu và đa số chia gồm hai nhóm:

- Cửu huyền: Chín đời: Cao , tằng , tổ , cha , mình , con , cháu , chắt 曾孫, chít 玄孫 chứ không phải 9 đời tính ngược từ mình lên. Do vậy lời giải thích “Thờ Cửu Huyền là thờ Tổ Tiên chín đời trước của dòng họ nhà mình” là không chính xác.

- Thất Tổ 七祖: Là bảy ông tổ tức Ông nội của đời mình; đi ngược lên sáu đời nữa gọi là thất tổ: Cao , tằng , cao cao 高高, tằng tằng曾曾, tổ tổ 祖祖, cao tổ 高祖.

Như vậy, chữ “cửu huyền” bao quát hơn chữ “thất tổ”. Vì “thất tổ” đơn thuần chỉ các thế hệ đi trước, còn “cửu huyền” không những chỉ bốn thế hệ trước mà còn nhắc đến bốn thế hệ sau và gồm cả bản thân ( ngã) là ở giữa.

1.4. Trên Internet có tác giả Trung Quốc nói về mấy chữ này như sau :

九玄 Cửu Huyền: (Tử, con), (Tôn, cháu), (Tằng, chắt), (Huyền, chút), (Lai, chít), (Côn, nối), (Nhưng, quay), (Vân, xa), (Nhĩ, chút chít). Tức nói đến 9 thế hệ.

七祖 Thất Tổ:父 (Phụ, cha), (Tổ, ông), (Tằng, cụ), (Cao, kị), (Thái, cố), (Huyền, sơ), (Hiển, rõ ).Tức đề cấp đến 7 vị trên mình.

Như vậy Cha nằm trong hệ thống Thất Tổ và thuộc Nhất Tổ, tính ngược lên: Ông là Nhị Tổ, Cụ là Tam Tổ, Kị là Tứ Tổ, Cố là Ngũ Tổ, tiếp Lục Tổ rồi Thất Tổ. Đây là quan niệm về hai hệ thống của Cửu huyền thất tổ.

2. Ý NGHĨA THỜ CÚNG:

2.1. Quy ước:

Thờ cúng “Cửu Huyền Thất Tổ” là tỏ lòng kính trọng các bậc tiền nhân đã sinh dưỡng, dày công dạy dỗ, chỉ bảo làm ăn, cử chỉ hành động sao cho được tốt đẹp, hợp đạo lý, để phát huy sự nghiệp của Tổ tiên và làm rạng rỡ Tổ tiên, là thờ cúng cái nguồn gốc phàm trần của xác thân.

Nho giáo (H: 儒敎, A: Confucianism, P: Confucianisme) cho rằng “Cửu huyền Thất Tổ” là một hệ thống, trong đó Cha không liệt vào Thất Tổ và qui định cách thờ Tổ Tiên có thứ bậc từ dân cho đến vua như sau:

- Sĩ và thứ dân chỉ được thờ tới Nhị Tổ (, Tổ, Ông Nội).

- Các quan Ðại Phu được thờ tới Tam Tổ (高祖, Cao tổ, Kị).

- Các vua chư Hầu được thờ tới Ngũ Tổ (玄祖, Huyền tổ, Sơ).

- Hoàng Ðế (Thiên tử) thì thờ tới Thất Tổ (遠祖, Viễn tổ)

Theo đó, thờ Thất tổ chỉ dành chua Vua, dân thường không được thờ. Khi muốn thờ Tổ Tiên cao hơn nữa thì người dân nói là thờ Cửu Huyền, tránh dùng chữ Thất Tổ mà bị tội phạm thượng. Bởi Cửu Huyền lấy theo cách gọi tên trong Cửu Tộc thời nhà Hán: Lấy bản thân làm mốc, lên trên bốn đời, xuống dưới bốn đời nên nói thờ Cửu huyền có người cho rằng chẳng lẽ thờ cả cả con cháu của mình? 

Thực ra, đây chính là thể hiện đủ cả Âm (đã mất), Dương (còn sống); để chỉ 3 đời nối tiếp nhau (quá khứ, hiện tại, tương lai); cũng là chỉ rằng có sự luân hồi chuyển kiếp trong dòng họ và thể hiện sự vay trả phúc, tội của các kiếp.

Cũng bởi tại quy định trên nên không có thuật ngữ “Bát (cửu, thập…) Tổ”!

2.2. Bàn thờ “Cửu huyền thất tổ”:

Có thể đặt riêng, nếu nhà có điều kiện hay tôn giáo mình theo buộc như vậy. Thường thờ chung một Ban thờ với ba Bát hương như vùng quê tôi vẫn bài trí.

Nếu thờ riêng thì Bài vị ở giữa ghi chữ  九玄七祖 (Cửu huyền thất tổ) còn đôi liễn hai bên có nơi bên phải viết: 崇德九玄恩上重 (âm: Sùng đức Cửu Huyền ân thượng trọng, nghĩa: Kính bái đức độ của Cửu Huyền đó ơn cao trọng) và bên trái viết: 尊功七祖義高深 (âm: Tôn công Thất Tổ nghĩa cao thâm, tức là: Tôn trọng công nghiệp của Thất Tổ là nghĩa cao sâu). Như tranh ở đầu bài.

Thực tế ít gia đình lập bàn thờ “Cửu huyền thất tổ” riêng mà thường đặt chung một ban thờ, trong đó có bát hương ngầm hiểu. Hơn nữa cũng chẳng mấy người hiểu được “ngọn nguồn” mà chỉ hiểu chung là Tổ tiên. 

Mặt khác, số người nhận được mặt chữ Nho vơi dần, người biết chữ lại dễ tặc lưỡi cho qua nên khá phổ biết hàng chợ họ viết sai, xếp nhầm thứ tự chữ nhưng chủ nhân cứ vô tư mua về và trưng lên, cũng chả thấy chết ai!

Cốt ở tấm lòng!

-         Lương Đức Mến, đón Đông Quý Mão-

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!