[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


27 tháng 5 2018

Tìm hiểu về PHẬT TỔ

Đại cương:
1. Số lượng các vị Phật theo kinh điển mô tả là hằng hà sa số (nhiều như cát sông Hằng), do vậy tìm hiểu khởi nguồn của chư Phật là không thể, quá phạm vi kiến thức mà một chúng sinh có thể biết. Tuy nhiên 3 Vị thường được nhắc tới, thờ chung trong bộ tượng Tam thế Phật (H: 三世佛, A: The Brahmanist Trinity, P: La Trinité Brahmaniste), là:
Hình TAM THẾ PHẬT (lấy trên mạng)
- Đại diện Phật quá khứ là Nhiên Đăng Cổ Phật (H: 燃燈古佛, Phạn: Dipankara, Pali: Dīpamkara, A: Dipankara, Ancient Buddha, P: Dipankara, Bouddha Ancien) là vị đầu tiên của 24 vị Phật trước đức Phật lịch sử Thích Ca;
- Đại diện Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni còn gọi là Phật Tổ (H: 佛祖, A: The founder of Buddhism, P: Le fondateur du Bouddhisme);
- Đại diện các vị Phật vị lai là Di Lặc Tôn Phật (H: 彌勒/彌勒王佛, Phạn: maitreya, Pali: metteyya, A: Maitreya-Buddha, P: Maitreya-Bouddha) là vị Phật kế tiếp Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, làm nhiệm vụ cai quản Càn khôn Thế giới và cứu độ chúng sinh.
2. “Thích ca Mâu ni” thường được dùng để chỉ vị Phật lịch sử đã từng sống trên Trái Đất này, nhằm phân biệt với các vị Phật khác.
Dù có nhiều truyền thuyết khác nhau, nhưng hầu hết các học giả đều công nhận ông đã sống và truyền dạy giáo lý dưới thời cai trị của Tần Bà Sa La 頻毘娑羅 (Bimbisāra, 558   491 tCn) và qua đời trong thời gian đầu của triều đại A Xà Thế 阿闍世 (Ajātaśatru, 491 – 461 tCn), người kế thừa của Tần Bà Sa La  trong vương quốc Magadha 摩揭陀 (MagádhaTK VI tCn - TK VI).
Thích Ca Mâu Ni (H: 釋迦牟尼, Phạn: śākyamuni, Pali: sakkamuni, dịch nghĩa là “Trí giả trầm lặng (muni) của dòng Thích Ca”. Đây là danh hiệu của Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Phạn: siddhārtha gautama, H: 悉達多 瞿曇), người sáng lập Phật giáo (H: 佛敎 , A: Buddhism, P: Bouddhisme) sau khi từ bỏ các vị thầy và tự mình tìm đường giải thoát.
1. Gia thế và quê hương:
Dòng Thích ca vốn là Vương tộc, cai trị một trong 16 vương quốc của Ấn Độ thời cổ, ngày nay thuộc miền Nam Nepal. Kinh đô thời đó là Ca Tì La Vệ (Phạn: kapilavastu), là nơi Phật sinh ra và trưởng thành. Vua cha là Tịnh Phạn (H: 淨飯, Phạn: śuddhodana, Pali: suddhodana), trị vì tiểu vương quốc Thích Ca (H: 釋迦, Phạn: śākya); Mẹ là Hoàng hậu Ma  Da (H: 摩耶夫人, Phạn, Pali: māyādevī), thuộc thị tộc Koli láng giềng sinh ra ông khi Hoàng hậu lấy Vua đã hơn 20 năm..
Thời bấy giờ, tiểu vương quốc dòng Thích Ca có một Hội đồng Trưởng lão tham gia quốc sự, nhưng vương quốc này bị phụ thuộc vào nước Kiêu Tát La (Phạn: kośala). Ngay trong thời Phật còn tại thế, tiểu vương quốc Thích Ca bị một quốc vương của Kiêu Tát La đem quân xâm chiếm và tiêu diệt gần hết. Sau khi Phật thành đạo và trở lại Ca Tì La Vệ giảng dạy, nhiều vị trong dòng dõi Thích Ca xin gia nhập Tăng Già. Tại đó, người thợ cạo Ưu Ba Li (Phạn:  , Pali: upāli) xin gia nhập, trở thành tăng sĩ trước và vì vậy được xem cao quý hơn các vị lĩnh đạo trong hoàng gia gia nhập sau.
Tất Đạt Đa Cồ Đàm là tên phiên âm từ tiếng Phạn Siddhārtha Gautama của vị Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Tất Đạt Đa (Phạn: siddhārtha) có nghĩa là “người đã hoàn tất (siddha) ý nghĩa (artha)”. Đôi lúc ta cũng tìm thấy cách dịch ý Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh dịch từ dạng dài của tên Phạn ngữ là sarvārthasiddha. Như vậy Tất Đạt Đa Cồ Đàm là tên của vị Phật lịch sử, từng sống trên trái đất, người sáng lập Phật giáo.
2. Sinh trưởng:
Thời điểm chính xác năm sinh và năm mất theo lịch hiện đại của ông không được ghi nhận rõ. Một số tài liệu thống nhất rằng:
Tất Đạt Đa sinh khoảng năm 644 trước Công nguyên trong một gia đình hoàng tộc thuộc dòng Thích Ca (Phạn: śākya) tại Ca Tì La Vệ (H: 迦毘羅衛, Phạn: Kapilavastu) thuộc Nepal  ngày nay. Cha của  Ngài là vua Tịnh Phạn  (H: 淨飯, Phạn: śuddhodana), mẹ là hoàng hậu Ma Da (H: 摩耶夫人, Phạn:  , Pali: māyādevī), đản sinh Tất Đạt Đa trong khu vực vườn Lâm Tỳ Ni (H: 嵐毘尼, Phạn: lumbinī), thành quốc Ca Tỳ La Vệ (H: 迦毘羅衛, Phạn: Kapilavastu, Pali: Kapilavatthu), một tiểu quốc nằm ở vùng biên giới Ấn Độ-Nepal ngày nay. Đây là khu vực nằm giữa dãy Himalaya (H: 喜馬拉山, Phạn: himālaya) và sông Hằng (sa ga), chịu ảnh hưởng khí hậu gió mùa: tháng 5 có thể nóng tới 40 °C, trong mùa đông nhiệt độ xuống tới 3 °C.
Về ngày sinh, trong kinh sách của Phật giáo đều không nêu rõ Đức Phật sinh vào ngày nào mà chỉ nêu Ngài đản sinh vào một ngày trăng tròn tháng Vèsaka theo lịch Ấn Độ[1]. Trong đó “Vesak” là tiếng Sinhala có thể được đọc trại ra từ Vaishākha trong tiếng Pali, là tên gọi của tháng Hai lịch pháp Ấn Độ giáo và cũng theo lịch này thì “ngày trăng tròn” là ngày 08 tháng Vaisakha[2]. Đây là bắt đầu sáu tháng nóng bức khó chịu nhất trong năm.
Đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên họp tại Colombo (Sri Lanka, 25/5 - 08/6/1950), 26 nước thành viên thống nhất: “Đại hội Phật giáo Thế giới này, trong khi ghi nhận lòng biết ơn về nghĩa cử bao dung của Ngài, vị vua tối cao của Nepal trong việc chọn ngày lễ hội trăng rằm Vesakha làm ngày lễ toàn quốc của Nepal, Đại Hội đồng thời thỉnh cầu quốc trưởng của tất cả các quốc gia trên thế giới có sự hiện diện của Phật tử dù ít dù nhiều, hãy tiến thêm bước nữa chọn ngày rằm của tháng năm âm lịch làm ngày lễ công cộng để vinh danh Đức Phật, người đã được thế giới thành tâm kính cẩn coi là một bậc vĩ nhân của nhân loại.”. Đến Đại hội Phật giáo Thế giới năm 1960 họp tại Phnompênh (Campuchia), căn cứ vào quyết nghị tại Đại hội Phật giáo Thế giới lần 2 họp tại Đông Kinh (Nhật Bản) năm 1952 đã thống nhất lấy ngày rằm tháng Tư theo lịch mặt trăng làm ngày kỷ niệm Đức Phật đản sinh[3] của giới Phật tử toàn thế giới[4]. Từ đó cả thế giới, trong đó có Việt Nam đều lấy ngày Rằm tháng Tư âm lịch làm ngày Phật đản Hội. Việc nhớ 08/4 là theo lối cũ.
Có nhiều truyền thuyết về thái tử Tất Đạt Đa. Có thuyết cho rằng một đêm bà mẹ nằm mơ thấy một vị Bồ Tát với dạng con voi trắng nhập vào người mình. Thái tử sinh ra từ hông bên mặt của mẹ, sau đó đi bảy bước, một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất, nói: “Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn”, nghĩa là “Trên trời dưới đất chỉ có ta là người đáng tôn kính” và dưới mỗi bước chân của thái tử phát sinh một đoá sen. Ngày nay, trong tranh tượng còn thấy tích này.
Ngay lúc sinh ra, Tất Đạt Đa đã có đầy đủ hảo tướng (Tam thập nhị hảo tướng). Các nhà tiên tri cho rằng Ngài sẽ trở thành hoặc một đại đế hay một bậc giác ngộ. 7 ngày sau khi sinh thì mẹ mất, Tất Đạt Đa được người dì là Ma Ha Ba Xà Ba Đề (H: 摩呵波闍波提, Phạn: mahāprajāpatī) chăm sóc.
3. Trưởng thành và tu hạnh:
Năm lên 16, Tất Đạt Đa kết hôn với công chúa Da Du Đà La (H: 耶輸陀羅, Phạn: yaśodharā) của thị tộc Koli. Ông đã sống một cuộc sống thanh tịnh dù là một thái tử đến năm 29 tuổi cho đến khi bắt đầu lên đường tìm chân lý đích thực.
Vua cha Tịnh Phạn không muốn thái tử đi tu nên dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, nhất là không để Tất đạt đa tiếp xúc với cảnh khổ. Tuy thế, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử phát tâm rồi từ biệt hoàng cung, sống cảnh không nhà. Tương truyền rằng, bốn cảnh ngộ vừa kể là những cảnh tượng do các vị thiên nhân tạo ra nhằm nhắc nhở Tất đạt đa lên đường tu học Phật quả. Thái tử thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho cái Khổ trong thế gian và hình ảnh tu sĩ chính là cuộc đời của Tất đạt đa.
Năm 29 tuổi, sau khi công chúa Da Du Đà La hạ sinh một bé trai được đặt tên là La Hầu La (H: 羅睺羅, Phạn: rāhula), Thái tử quyết định lìa cung điện, cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Tất Đạt Đa quyết tâm tìm cách diệt khổ và tìm mọi đạo sư với các giáo pháp khác nhau.
Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Các vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đó là A La La Ca Lam (阿羅邏迦藍, Phạn: ārāda kālāma, Pali: āāra kālāma) và Ưu Đà La La Ma Tử (優陀羅羅摩子, Phạn: rudraka rāmaputra, Pali: uddaka rāmaputta). Nơi A La La Ca Lam, Tất Đạt Đa học đạt đến cấp Thiền Vô Sở Hữu Xứ (Phạn: ākicanyāyatana, Pali: ākiñcaññāyatana), nơi Ưu Đà La La Ma Tử thì học đạt đến cấp Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (Phạn: naivasajñā nāsañāyatana, Pali: nevasaññā nāsaññāyatana).
Nhưng Tất Đạt Đa cũng không tìm thấy ở đó lời giải cho thắc mắc của mình, nên quyết tự mình tìm đường giải thoát và có năm Tỳ kheo (năm anh em Kiều Trần Như, Phạn: Koṇḍañña) đồng hành. Sau nhiều năm tu khổ hạnh gần kề cái chết, Tất đạt đa nhận ra đó không phải là phép tu dẫn đến giác ngộ, bắt đầu ăn uống bình thường, năm tỉ khâu kia thất vọng bỏ đi.
Không đạt giải thoát với cách tu khổ hạnh, Tất Đạt Đa từ bỏ phép tu này. Quả quyết rằng mình đã đi đến chỗ cùng cực của công phu tu khổ hạnh và khổ hạnh không dẫn đến giác ngộ, Ngài tìm phương pháp khác, và nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, lúc đang ngồi dưới gốc cây mận.
Sau đó Tất Đạt Đa ăn uống bình thường trở lại, đến Giác Thành, ngồi dưới gốc một cây Bồ đề ở Bồ Ðề Ðạo Tràng (Boudha Gaya) và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Sau 49 ngày thiền định—mặc dù bị Ma vương quấy nhiễu—Ngài đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Từ thời điểm đó, Tất Đạt Đa biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh. Đồng thời kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt nên Phật tiếp tục yên lặng ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề. Cuối cùng, được sự thỉnh cầu nhiều nơi, Phật mới quyết định chuyển Pháp luân (H: 法輪, Phạn: dharmacakra, Pali: dhammacakka, nghĩa là bánh xe pháp). Phật giờ đây mang danh hiệu Thích Ca Mâu Ni—”Trí giả của dòng dõi Thích ca”.
Sau đó Phật gặp lại năm vị Tỉ khâu, các vị đó nhận ra rằng Phật đã hoàn toàn thay đổi. Qua hào quang toả ra từ thân Phật, các vị đó biết rằng người này đã đạt đạo, đã tìm ra con đường thoát khổ, con đường mà các vị đó không thể tìm ra bằng phép tu khổ hạnh. Các vị đó xin được giảng pháp và vì lòng thương chúng sinh, Phật chấm dứt sự im lặng.
Đức Phật bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, Đức Phật giảng Tứ diệu đế, Duyên khởi và quy luật Nhân quả (Nghiệp). Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba la nại (Benares hay Varanasi), Đức Phật bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là “Chuyển Pháp luân”. Năm vị Tỳ kheo đó trở thành năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật và là hạt nhân đầu tiên của Tăng già.
Sau đó Đức Phật thuyết pháp từ năm này qua năm khác, hay lưu trú tại Vương Xá (H: 王舍城, Phạn: rājagha) và Phệ Xá Li (H: 吠舍釐, Phạn: vaiśālī), sống bằng khất thực, qua nhiều nơi. Đệ tử của Phật càng lúc càng đông, gồm 4 thành phần: tỳ kheo (nam tu sĩ), tỳ kheo ni (nữ tu sĩ), ưu bà tắc (nam cư sĩ), ưu bà di (nữ cư sĩ).
Trong số các đệ tử của Ngài có vua Tần Bà Sa La (H: 頻婆娑羅, Phạn: bimbisāra) của xứ Ma Kiệt Đà. Vị vua này đã tặng cho Tăng đoàn một tu viện gần kinh đô Vương xá.
Các đệ tử quan trọng của Phật là A Nan Đà (H: 阿難陀, Phạn, Pali: ānanda, 605 - 485 tCn), Xá Lợi Phất (H: 舍利弗, Phạn: śāriputra, Pali: sāriputta, ?-?) và Mục Kiền Liên (H: 目犍連, Pali: Moggallāna, 568-484 tCn, đắc quả A-la-hán và trở nên nổi tiếng là bậc “Thần thông đệ nhất” (Manda Galỳayana), có Hiếu với Mẹ, được nhắc đến trong tục Vu Lan).
Cũng trong thời gian này, đoàn Tỉ khâu ni (tức Tỳ Kheo ni (H: 比丘尼, Phạn: bhikuī, Pali: bhikkhunī) được thành lập do di mẫu của Tất đạt đa là bà Ma ha ba xà ba đề làm ni trưởng..
Những lời giáo pháp trong thời gian ông đi truyền bá đã đặt nền tảng cho sự hình thành của Phật giáo.
4. Đấu tranh với kẻ thù :
Đức Phật cũng có rất nhiều kẻ thù muốn ám hại. Trong những kẻ thù đó, có Đề Bà Đạt Đa (H: 提婆達多, Phạn: Devadatta) là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng già hay là Tăng đoàn (H:, Phạn: sagha, Pali: sagha), nên rắp tâm giết hại Đức Phật nhiều lần nhưng không thành. Tuy thế Đề Bà Đạt Đa thành công trong việc chia rẽ Tăng già ở Phệ Xá Li. Đức Phật đi con đường trung đạo và tùy thuận chúng sanh, ngược lại Đề Bà Đạt Đa chủ trương một cuộc sống khổ hạnh cực đoan.
Qua 45 năm giảng dạy, nghĩ rằng các đệ tử có thể chấp lời mình nói là chân lý, chứ không phải chỉ là phương tiện giác ngộ, Đức Phật tuyên bố chưa từng nói lời nào. Lời dạy cuối cùng của Đức Phật là: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tiến tu học (để đạt giải thoát)!”.
5. Những ngày cuối đời của Đức Phật:
Bước sang tuổi 80, sức khoẻ của Thích Ca đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà thí chủ Thuần Đà (H: 純陀, Pali: cunda). Sau này, Ngài có nhấn mạnh cho tôn giả A nan đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách người thợ rèn đó đã có thiện ý tối thượng.
Đức Phật tạo điều kiện cho các chư Tỳ kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp Ngài nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, tuy nhiên các vị đã im lặng, không có những câu hỏi hay thắc mắc nào.
Trong cánh rừng Sà La Ven phía nam thành phố, đêm rất tối và tĩnh mịch, Đức Phật nằm nghiêng bên phía hữu, hướng về phía Tây và dần nhập Niết bàn, giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống.
Theo truyền thuyết Pali thì Đức Phật diệt độ ngày rằm tháng tư, văn bản Phạn ngữ cho rằng ngày rằm tháng 11. Trong buổi hoả thiêu thân xác của Đức Phật có nhiều hiện tượng lạ xảy ra. Xá lợi của Phật được chia làm 8 phần và nhiều thế kỷ sau đó, vua Ashoka (H: 阿育王, Phạn: aśoka, Pali: asoka, 273 – 232 tCn) Vương triều Mataga đem đi cho xây cất và tôn thờ thành 84.000 tháp.
Theo kinh Đại bát niết bàn (Pali: mahāparinibbāna sutta), Đức Phật nhập diệt tại Câu thi na (H: 拘尸那, Phạn: kuinagara) vào năm 486 (hay 483 trước Công nguyên). Nhưng căn cứ tiểu sử của Ngài thì Tất Đạt Đa sinh 644 tCn, thọ 80 tuổi tức Ngài mất năm 544 tCn. Tổng Hội Phật giáo Thế giới lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn làm kỷ nguyên Phật lịch (H: 佛曆, A: Buddhic calendar, P: Le calendrier bouddhique) nên năm 2018 là năm 2562 Phật lịch.
6. Trở thành Phật Tổ:
Cuộc đời Đức Phật có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học đều nhất trí công nhận Đức Phật là một nhân vật lịch sử, đã khai sáng Phật giáo và thường nhắc đến bốn sự kiện quan trọng, cũng là bốn mốc son trong quãng thời gian nơi trần thế của Ngài. Đó là ngày:
- Đản sinh 誕生 (Đức Phật ra đời) tại vườn Lâm Tỳ Ni (嵐毘尼, Lumbini);
- Ngày thành đạo 成道 (tìm ra diệu lý) ở Bồ Đề Đạo Tràng (菩梵道場, Bodh Gaya);
- Thời gian chuyển pháp luân 弘法 (hoằng pháp) ở vườn Lộc Uyển (鹿野苑, Sarnath)
- và Niết bàn 涅槃 (nhập diệt) tại Câu Thi Na (拘尸那揭羅, Kusinagara) ở rừng Sa La dưới chân dãy Himalaya 喜马拉雅山脉 hùng vĩ.
Trong đó, ngày Đức Phật đản sinh đã trở thành ngày lễ lớn nhất, quan trọng nhất và thiêng liêng nhất của giới Phật tử toàn thế giới nay thống nhất là ngày Rắm tháng Tư Âm lịch. Đặc biệt, Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Tây Tạng thì kỷ niệm ngày Tam hiệp (H: 三合禮, A: The Triple Festival) gồm: cả Phật đản, Phật thành đạo và Phật nhập Niết Bàn.
Ngài được các Phật tử coi là một bậc đạo sư với 10 tôn hiệu 十號 cao quý:
1. Như Lai (H:  如來, Phạn, Pali:  tathāgata), là “Người đã đến như thế” hoặc “Người đã đến từ cõi Chân như”. Phật giáo Mật Tông còn gọi là “Tỳ Lô Giá Na”, dịch ý nghĩa là “Đại Nhật Như Lai”. Theo tiếng Phạn, “Tỳ Lô Giá Na” là tên gọi khác của Mặt Trời. Dùng danh hiệu “Tỳ Lô Giá Na” có nghĩa coi Tất-đạt-đa Cồ-đàm là Mặt Trời hồng không bao giờ tắt; tuệ giác của ông như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
2. Ứng Cúng (H:  阿羅漢, Phạn:  arhat, Pali:  arahant), dịch nghĩa là A La Hán (H:  應供), là “Người đáng được cúng dường”, đáng được tôn kính.
3. Chính Biến Tri­ (H:  正遍知, Phạn:  samyaksabuddha), dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà (H:  三藐三佛陀), là “Người hiểu biết đúng tất cả các pháp”.
4. Minh Hạnh Túc (H:  明行足, Phạn:  vidyācaraasapanna), nghĩa là “Người có đủ trí huệ và đức hạnh”, tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
5. Thiện Thệ (H:  善逝, Phạn:  sugata), là “Người đã đi một cách tốt đẹp”
6. Thế Gian Giải (H:  世間解, Phạn:  lokavid), là “Người đã thấu hiểu thế giới”
7. Vô Thượng sĩ (H:  無上士, Phạn:  anuttarapurua), là “Đấng tối cao, không ai hơn”
8. Điều Ngự Trượng Phu (H:  調御大丈夫, Phạn:  puruadamyasārathi), nghĩa là “Người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại”. Điều Ngự Trượng Phu còn một nghĩa khác nữa là Tất-đạt-đa Cồ-đàm có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
9. Thiên Nhân Sư (H:  天人師, Phạn:  devamanuyānā śāst), là “Bậc thầy của cõi người và cõi trời”
10. Phật Thế Tôn (H:  佛世尊, Phạn:  buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là “Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính”
Phật tử coi Ngài đã giác ngộ viên mãn và tự giải thoát hoàn toàn khỏi quy luật sinh tử luân hồi, hiểu rõ được sự vận hành của thế giới xung quanh, đồng thời truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người khác để họ có thể tự chấm dứt khổ đau bản thân, nhận sự hạnh phúc tối thượng.
Chi tiết về cuộc đời, những lời dạy và các giới luật của ông được những học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Siddhārtha Gautama qua đời. Hàng loạt những bản kinh ghi lại lời dạy của ông được lưu giữ qua truyền miệng và được viết thành sách 400 năm sau đó.
Tranh PHẬT TỔ (lấy trên mạng)
Tuy cùng tôn thờ Thích Ca Mâu ni Phật nhưng Phật giáo đã phân hóa ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng, với nhiều sự khác biệt:
1. Phật giáo Nguyên thủy (H: 原始佛教, còn gọi là Phật giáo Nam Tông, Phật giáo Thượng tọa, Phật giáo Tiểu thừa, Thanh-văn thừa. Đây là nhánh Phật giáo có hệ thống kinh điển được coi là gần nhất với giáo lý nguyên thủy của đạo Phật, phát triển mạnh ở Sri Lanka và Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar).
2. Phật giáo Đại thừa (H: (大乘, Phạn: mahāyāna), còn gọi là Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Đại chúng, Phật giáo Phát triển phát triển ở Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Singapore) và bao gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn như Tịnh độ tông, Thiền tông, Thiên thai tông.
3. Phật giáo Chân ngôn  (H: 金剛乘, Phạn: vajrayāna), còn gọi là Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Mật tông, Phật giáo Kim cương thừa phát triển ở Tây Tạng, Mông Cổ và Bhutan.
Mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Đạo Phật được tìm thấy ở khắp thế giới, tập trung nhiều ở các nước Á Đông như: Ấn Độ, Trung Hoa, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bổn, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cmpuchia, Việt Nam,..... Ước tính số người theo đạo Phật vào khoảng 350 triệu đến 700 triệu người.
Phật giáo (H: 佛敎, A: Buddhism, P: Bouddhisme) là những điều dạy bảo của Phật tạo thành một giáo pháp có hệ  thống để dạy dỗ nhơn sanh. Đó là một nền triết học về  đạo đức rất cao siêu, dạy nhân sinh tự  tỉnh, tự ngộ, tự giác, để cuối cùng thì thành Phật. Đó là một tôn giáo mang tính duy lý và vô thần. Hệ thống giáo lý của Phật giáo không hướng đến sự sùng bái thần linh mà hướng đến nhận thức chân lý hay còn gọi là giác ngộ. Chính sự nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới xung quanh sẽ giúp con người được giải thoát.
Hiện nay, khi nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay là một tôn giáo do Đức Phật Thích Ca mở ra và làm giáo chủ (H: 敎主, A: The founder of a religion, P: Le fondateur d'une religion). Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về bản chất của con đường đưa đến giải thoát, tính chính thống của các bài giảng đạo và kinh điển, đặc biệt là ở phương thức tu tập.
Vì hướng đến việc nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới khách quan nên hệ thống triết lý Phật giáo chứa đựng nhiều quan điểm bản thể luận và nhận thức luận. Siêu hình học trong triết học Phật giáo đã phát triển đến một trình độ cao.
7. Phật giáo Việt Nam:
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm trải qua bốn giai đoạn:
1. Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
2. Thời Lý - Trần là giai đoạn cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống;
3. Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái khi Nho giáo được coi là quốc giáo, xuất hiện hiện tượng “Tam giáo đồng nguyên” (H: 三敎同原, A: Three religions was originated from the same source, P: Trois religions sont provenues de même source), dù dưới thời Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả;
4. Sang đầu thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam đến nay là giai đoạn phục hưng. 
Phật giáo Bắc Tông có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông.
Như vậy, Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm tương đồng và khác biệt so với Phật giáo của các nước khác trên thế giới. Tuy có những giai đoạn thăng trầm khác nhau nhưng Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc và trên nền tảng tư tưởng của Phật giáo, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bản địa, nhiều nghi lễ là sự kết hợp giữa Phật giáo nguyên thủy và truyền thống dân tộc. Do vậy các nghi thức việc Hiếu cũng ảnh hưởng của Phật giáo. Trong đó có tục về việc tổ chức Mừng Thọ, Tang lễ và Cúng giỗ cha mẹ sao cho trọn vẹn. Việc này tồn tại từ bao đời; những yếu tố ngoại nhập hòa trộn với văn hóa bản địa đã trở thành “Lễ nghi phong hóa” (H: 禮儀風化, A: Ceremonies and manners, P: Cérémonies et moeurs) tức là cách thức bày ra trong khi tiến hành sao cho được trật tự, trang nghiêm, kính cẩn.
Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2009, hiện có gần 6.802.318 tín đồ Phật giáo, còn theo số liệu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường.
- Lương Đức Mến, Tuần Phật Đản, PL 2562 - DL 2018 - Can Chi: Mậu Tuất-




[1] Theo lịch Ấn Độ cổ đại, được gọi là “panchanga”, nó dựa trên chu kỳ mặt trăng.
Một năm có khoảng từ 365,258681 ngày đến 365,258756 ngày (năm hiện đại có 365,25636 ngày). Lịch quốc gia Ấn Độ tính theo kỷ nguyên Saka mà năm đầu tiên là vào năm 78. Ví dụ, năm 2018 Dương lịch chuyển thành năm 1940-1941 trong kỷ nguyên Saka.
Lịch này có 12 tháng (Chaitra, Vaisakha, Jyaistha, Asadha, Sravana, Bhadra, Asvina, Kartika, Agrahayama, Pausa, Magha, Phalguna) theo chu kỳ mặt Trăng. Trong đó: từ tháng thứ hai đến tháng sáu có các ngày trung bình là 30,5 ngày nên được dồn đến 31 ngày. Các tháng còn lại có 30 ngày (năm nhuận tháng Chaitra có 31 ngày).
Một ngày được tính theo thời gian từ mặt trời mọc này và tiếp theo đó. Ngày đầu tiên của Lịch quốc gia Ấn Độ trùng với ngày 22 tháng 3 của năm Dương lịch, năm nhuận bắt đầu vào ngày 21 tháng 3.
[2] Nhớ rằng, Lịch Ấn Độ lấy tháng Tí làm tháng Giêng, còn Lịch Trung Quốc thì lập tháng Dần làm tháng Giêng. Theo đó, tháng 2 là “Vaisakha” có 31 ngày và được bắt đầu từ ngày 21/4 Dương lịch và “ngày trăng tròn” là sang tháng 5 ứng với ADL là tháng 4. Còn “ngày trăng tròn” lịch Ân là 08, Lịch Trung là 15.
Như vậy rõ ràng mốc Đản sinh của Phật nếu lấy  08/2 và 08/4 AL đều không chính xác. Mà đúng ra đó là ngày 15/4 âm dương lịch đang dùng.
[3] Ngày Phật đản (H: 佛誕 , A: Buddha 's birthday, P: Jour de la naissance du Bouddha)
[4] Năm 2007 trong tháng 5 có 2 ngày trăng tròn. Đó là thứ Ba 01/5/2007 (ngày Rằm tháng Ba Đinh Hợi) và thứ Năm ngày 31/5/2007 (ngày Rằm tháng Tư Đinh Hợi). Chính chắc vì vậy mà Liên Hợp Quốc, vốn dùng Dương lịch nhưng ngày Phật đản lại ghi rõ là ngày Rằm tháng Tư theo lịch âm (vào tháng 5 Dương) thuận hơn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!