[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


19 tháng 10 2014

Về BẢNG NHÃN LƯƠNG ĐẮC BẰNG

Nhân dịp Đài truyền hình Việt Nam, trên VTV1, hồi 7 giờ 30 phút sáng Chủ Nhật 19/10/2014 có phát  bộ phim tài liệu về Danh nhân đất Việt: Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng, đăng lại những thu lượm  về người được suy tôn là Thủy tổ dòng họ mình. Bài này gồm 6 phần:
1. Cha hiền chọn được đất lành:       
2. Người con thông tuệ sáng danh giống dòng:    
3. Làm quan mấy bận long đong:      
4. Dâng lên sách quý hết lòng vì vua:        
5. Làm Thầy xứng với gương xưa:   
6. Làm người tiếng đẹp để cho muôn đời: 

1. Cha hiền chọn được đất lành:

Theo Phổ ký họ Lương xã Thuận An, tổng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định  thì thế thứ là: Thỉ tổ Lương Thế Nghệ - Lương Thế Triệu - Lương Thế Vinh - Trinh Túc tự Thế Cốc và Thế Khôi tự Chiêu Trưng - Con Chiêu Trưng là Thế Khải khởi dòng Lương Hội Triều - Đắc Bằng. Như thế Lương Đắc Bằng (đời thứ 6) là đích tôn của Đô đốc Chiêu Trưng.
Trong Họ Lương Hội triều Bổn đường gia phổ thì thế thứ là: Hiệu Mộ đô phủ quân[1] - Lương Đại Đồng 梁同 - Lương Nhữ Hốt 梁汝笏 - Lương Thế Vĩnh – Lương Tiệm Giác - Lương Danh Luật[2] - Lương Tông Huệ[3] 梁宗惠 - Lương Hay 梁咍 - Lương Đắc Bằng 梁得朋. Theo đó ông nội Lương Đắc Bằng (đời thứ 9) lại là Lương Tông Huệ. Phả còn chép chuyện có thầy tướng nói về gia trạch của cụ Mộ đô phủ quân là: “Nhà ông có âm chất, nguyện vì ông (thỉ tổ) lựa cho một cát địa, bèn di táng tổ tỷ tại Sơn trang Ngọc tôn sơn trên chóp nhỏ, Thái âm kim tinh, Dậu sơn Mẹo hướng và họa đồ trang lập địa cảo và nói với ông: Nghe ông nhà thịnh đức có thể ví với họ Đậu, bèn tìm cho ông một kế thất... kế thất sinh được 3 trai, sang Trung quốc 1 trai còn lại 2 trai. Đồng thời du học, đời Trần Dụ tông chú cháu 5 người đều đậu tiến sĩ (?) đương thời hiệu xưng: “Ngũ tử đồng khoa”.
Còn theo Giới thiệu sơ lược về họ Lương làng Luật Ngoại (Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định) thì thế thứ là:  Lương Văn Trường - Lương Phong Lộc – Lương Thế Vinh và người con thứ hai của Thái tổ là Lương Phong Phú có con cháu là: Lương Phong Thái – Lương Dung – Lương Đắc Bằng. Như thế ông nội Lương Đắc Bằng (đời thứ 5) lại là Lương Phong Thái.
Đa phần các tài liệu đều ghi cha Đắc Bằng là Lương Hay (梁咍, 1424-1484). Ông hiệu là Tĩnh Hiên tiên sinh, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh. Năm Quang Thuận thứ nhất (光順元年, 1460) đậu Giải nguyên kỳ thi Hương[4], làm Huấn đạo 訓導. Không tiếp tục dự thi Hội và sau cũng không ra làm quan, ông ở nhà mở lớp dạy học. Học trò đến xin học rất đông. Giải nguyên là một nho sĩ có học vấn uyên bác, một nhà giáo ưu tú, đã đào tạo cho  nước nhà nhiều nhân tài lỗi lạc (trong đó có Trang nguyên Lương Thế Vinh) và là người mở đầu giai đoạn phát triển rực rỡ về văn hóa của quê hương Hội Triều.

2. Người con thông tuệ sáng danh giống dòng:

 Lương Đắc Bằng (梁得朋, 1472 – 1516)[5] hồi nhỏ tên là Tử Ngạn (Ngạn Ích) là con của Giải nguyên Lương Hay (梁哈, 1401– 1484)[6] và bà Lê Thị Sử. Bà vốn con nhà khoa bảng ở làng Vĩnh Trị, cũng ham thích văn chương, cho nên vừa là người vợ nội trợ đảm đang, lại vừa là người bạn cầm kỳ thi phú, cùng chồng dạy dỗ con cái. Từ nhỏ Ngạn Ích thông minh xuất chúng, nổi tiếng là Thần Đồng đất Cổ Hoằng. Năm 8 tuổi khi đi chơi ở Lam Sơn, qua bến đò Từ Minh, gặp một vị Sư, đã cùng nhau làm thơ, khiến vị Sư kia rất khâm phục[7]. Năm 12 tuổi (1484, khi cha mất), theo lời cha dặn đã ra Bắc thọ nghiệp học trò cha mình là Trạng nguyên Lương Thế Vinh ở Cao Hương.
Khi Ngạn Ích trưởng thành cũng là thời mà vào năm Hồng Đức thứ 15 (洪德苐十五年,1484), Bộ Lễ trình và được vị vua Trung hưng 中興 là Lê Thánh Tông (黎聖宗思誠, 1460-1497) chuẩn tấu đem danh hiệu Trạng nguyên 狀元, Bảng nhãn 榜眼, Thám hoa lang 探花郎 làm thành Tiến sĩ cập đệ 進士及第, người đỗ Phụ bảng đổi gọi là đồng Tiến sĩ xuất thân 同進士出身[8]. Đồng thời nhà vua sai Phụng trực đại phu Hàn lâm viện Thừa chỉ Đông các Đại học sĩ 奉直大夫翰林院承旨東閣大學士 Thân Nhân Trung 申仁忠[9] soạn,  mấy bậc kỳ tài khác viết chữ, khắc văn bia tiến sĩ đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đó là bia ghi danh những Tiến sĩ đầu tiên khoa thi Nhâm Tuất 1442 大寶三年壬戌科進士題名記. Cũng chính tại văn bia này đã có câu nổi tiếng: “…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia...” 贤材國家之元气 và có tên người họ Lương đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ là Lương Như Hộc (梁如鵠, ?-?)[10].
Năm 1495 trong kỳ thi Hương 乡试/秋闈 Lương Ngạn Ích đỗ đầu, tức Giải nguyên 解元. Ngày 09 tháng 4 năm Cảnh Thống thứ hai (景統苐二年, Kỷ Mùi, 1499) đời vua Lê Hiến Tông (黎憲宗, 1498-1504) khi Lương Ngạn Ích thi Hội 會試 kinh nghĩa, thơ phú đều đầu bảng. Bắc quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Hoa Lâm hầu Trịnh Tốn và Lại bộ Thượng thư Trần Cận làm Đề điệu[11]; Hình bộ Thượng thư Đinh Bô Cương làm Giám thí; Đông các học sĩ Nguyễn Bảo, Hàn làm viện thị giảng Tham chưởng hàn lâm viện sự Lê Ngạn Tuấn làm Độc quyển đã lấy ba người là Đỗ Lý Khiêm, Lương Ngạn Ích, Nguyễn Khắc Kiệm đỗ Đệ Nhất giáp Tiến sĩ cập đệ 第一甲三名賜進士及第; Hoàng Trưng, Nguyễn Hằng… đỗ Đệ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Trần Bá Lương, Lê Tự …đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ xuất thân, tất cả 55 người. Việc truyền loa xướng danh diễn ra tại điện Kính Thiên 敬天, bảng vàng treo cửa Đông Hoa 東華 được thực hiện vào ngày 16.
Kỳ thi này do có nhiều điều dị nghị về thứ bậc Tam khôi, để thử tài thật sự của các vị tân khoa, ngày 10 tháng 7 vua tuyên triệu số tiến sĩ vừa đỗ vào làm bài thi ứng chế ngay tại sân rồng 賜對于廷, do đích thân nhà vua ra đề, tức thi Đình 殿试[12]. Khi hỏi về nhân tài, vương chính với đề 五王帐Ngũ Vương trướng[13] Lương Ngạn Ích được ưu hạng 優等, Hiến Tông Hoàng đế cho tên ông là Đắc Bằng, thuỵ Đạm Hiên tiên sinh. Nhưng  theo ý hoàng hậu thì Trạng nguyên 狀元 phải là người trọng trấn, vì ông còn trẻ nên vua hạ bảng cho đỗ Đệ Nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ Nhị danh 第一甲進士及第第二名 (tức Bảng nhản 榜眼), lấy Đỗ Lý Khiêm[14] đậu Trạng nguyên. Vua Hiến Tông có ngự chế “Thi nhị thủ vân” 詩二首云 tặng hai vị Tiến sĩ đệ nhất giáp (Đắc Bằng, Lý Khiêm) 2 bài thơ.

3. Làm quan mấy bận long đong:

Sau khi thi đỗ, Lương Đắc Bằng được bổ làm Hàn lâm học sĩ 翰林學士, từng cùng các đại nho: Đông các học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp, Lê Ngạn Tuấn, Lê Mậu Thưởng, Nguyễn Xung Xác, Hàn lâm viện thị thư Nguyễn Tôn Miệt, Đông các hiệu thư Đặng Tòng Củ, Đặng Minh Khiêm, Hàn lâm viện hiệu lý Nguyễn Viên, Vũ Châu, Hiệu thảo Nguyễn Mẫn hoạ lại bài thơ ngự chế: 觀架亭中秋玩月 Quan Giá đình trung thu ngoạn nguyệt[15] 15 vần của Vua vào Rằm tháng Tám năm Cảnh Thống thứ 2 (Canh Thân, 1500). Được vua yêu, Đắc Bằng lĩnh chức Tả thị lang Bộ Lễ 禮部侍郎 (như Thứ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin-Giáo dục nay), sau làm Tả thị lang Bộ Lại 吏部侍郎 (như Thứ trưởng Bộ Nội vụ nay) và có nhiều đóng góp và công cuộc phát triển văn hóa, cất nhắc quan lại của triều đại.
Cuối thế kỷ XV triều Lê đã có dấu hiệu đi xuống. Khởi đầu là việc Lê Uy Mục (黎威穆, 1488 – 1509, húy là Lê Tuấn 黎濬) ăn chơi vô độ, ham rượu chè, gái đẹp, tàn bạo giết hại nhiều người vô tội. Vì vậy Phó sứ thần Trung Quốc là Hứa Thiên Tích mới gọi là vua quỷ 鬼王. Thêm vào đó, bọn hoạn quan thọc vào chính sự, kẻ ngoại thích 外戚 (Khương Chủng 姜种, Nguyễn Bá Tuấn 阮伯勝) mặc sức chuyên quyền, pháp luật phiền hà, kỷ cương rối loạn, nông tang tiêu tàn, phong tục suy đồi, đời sống điêu linh, dân không chịu đựng nổi.
Trong bối cảnh đó, tháng 11 Kỷ Tỵ 1509, Lương Đắc Bằng được Giản Tu công Óanh 簡修公瀠 (trá xưng là Cẩm Giang Vương) thăng là Lại Bộ Thương thư, sai viết Hịch dụ đại thần và các quan 檄諭大臣百官 tố cáo và kêu gọi mọi người khởi binh đánh Đoan Khánh Uy Mục. Là người thức thời, đặt chữ Trung đúng chỗ,  giỏi văn ông đã chấp bút viết với những lời lẽ sâu sắc, chặt chẽ[16].
Giản Tu công Oánh cùng những người theo kéo lá cờ chiêu an, tiến quân đến sát Đông Kinh. Thất thế, Uy Mục chạy ra Nhật Chiêu (nay là Nhật Tân, Hà Nội) rồi bị bắt, trói ở cửa Lộc (Lệ) Cảnh và đã uống thuốc độc tự tử. Kinh thành yên, Lương Đắc Bằng cùng Lê Quảng Thọ và các đại thần tôn Giản Tu công tự Oánh là Hoàng đế tức vua Tương Dực (黎襄翼, 1495 – 1516). Lên ngôi, Oánh giáng Uy Mục làm Mẫu Lệ Công 閔勵公, ân xá trong nước, đổi niên hiệu là Hồng Thuận ( , 1509-1516). Tháng Giêng năm sau, Tương Dực luận công ban thưởng cho những người ứng nghĩa, trong đó ông: “…; Hàn lâm viện thị độc tham chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng làm Lại bộ Tả thị lang”. Sau ông được Tương Dực gia phong Thượng thư Bộ Lại 吏部尚書 (như Bộ trưởng Nội vụ nay), tước Đôn trung bá.
Nhưng về sau Lê Tương Dực lại đi theo vết xe đổ đời trước, cho xây Cửu Trùng Đài 九重臺, đóng chiến thuyền bắt con gái khỏa thân chèo chơi ở Hồ Tây, giết 15 vương công, gian dâm với các cung nhân của triều trước… Vì vậy lòng người oán thán, gọi là vua lợn 豬王. Lương Đắc Bằng đã hết lòng can gián, Tương Dực biếm ông xuống Lại bộ Tả thị lang (Thứ trưởng). Nhân mẹ mất, ông xin về cư tang 居丧.

4. Dâng lên sách quý hết lòng vì vua:

Đến tháng 10 năm Hồng thuận thứ 2 (Canh Ngọ, 1510), được Lê Tương Dực triệu về triều phục chức Lại bộ Thượng thư kiêm Đại Học sĩ Đông các coi sóc tòa Kinh Diên (nơi Vua đọc sách) 東閣學士入侍經筵. Thấy tình hình đất rối ren, giặc bên ngoài chưa yên, quyền thần đánh, chém giết nhau, chốn Kinh sư đẫm máu, cái điềm vận nước ngày một suy đã xuất hiện, ông không nhận chức mà nhân đó soạn dâng kế sách “Trị Bình” 14 chước 治平十四策 lên Lê Tương Dực[17].
Với tất cả tài trí, tâm huyết của mình, Lương Đắc Bằng đã khái quát được tất cả các việc cần làm để ổn định triều chính, xã tắc, quan tâm đến dân tình. Vua xem khen nhưng không dùng[18].
Đến năm Tân Mùi (1511), Minh Chính Đức (正德,1505-1521)sai Trạm Nhược Thuỷ Hàn Lâm viện biên tu làm Chánh sứ, Hình khoa cấp sự trung Phan Hy Tăng, làm phó sứ, mang sách thư phong nhà vua tước An Nam quốc vương và ban cho một cỗ mũ bì biền, một cặp áo thường phục. Sau khi Hi Tăng đã yết kiến nhà vua rồi, ra bảo với Nhược Thủy rằng: "Quốc vương dung mạo đẹp nhưng lệch mình, tính đa dâm, trông như tướng con lợn, chả bao lâu nữa sẽ bị loạn vong"[19]. Khi sứ thần ra về, nhà vua tiễn đưa hành lý khá hậu, nhưng họ đều không nhận.
 Vua Tương Dực triệu ông làm Lạn sứ, tiếp sứ bộ thiên triều. Ông phụng chỉ làm Ngự chế thi để tiễn đoàn. Tại dịch quán ở Lạng Sơn, Trạm, Phan đưa cho ông một tập 100 bài thơ, bảo ông hoạ lại. Chỉ một đêm, ông đã họa xong. Hai sứ khen là kỳ tài. Khi qua ải, sứ bộ còn tặng ông một áo bông, một mũ thanh chiên để biểu tấm lòng. Trạm, Phan về nước đem thơ xướng hoạ khi đi sứ Việt Nam đi in[20]. Đến đời Hồng Võ, sắc phụng kê An Nam hào kiệt 12 người, ông đứng thứ nhì.
Lúc này, loạn lạc nổi khắp nơi: Trần Duy Nhạc Ngô Văn Tổng dấy quân Kinh Bắc; Trần Tuân đánh phá Sơn Tây; Phùng Chương quấy miền Tam Đảo; Trần Công Ninh chiếm giữ Phúc Yên; Lê Hy, Trnh Hưng, Văn Triệt tung hoành ở Nghệ An; Trần Cao mạo xưng con cháu họ Trần cùng con Thăng, ng Phạm Ất cùng vi đồ đảng dấy quân ở Hải Dương...Vua tôi nhà Lê chẳng lo chấn chỉnh, dẹp loạn mà Tương Dực ngày càng hoang dâm, nghe lời siểm nịnh; các đại thần chia bè, đem quân đánh lẫn nhau, ai cũng vỗ ngực phò vua, giúp c, an dân...
 Một lần bị quyền thần làm nhục, ông nói “ tôi thà chịu chết vì chức vụ, không  chịu chết dưới loạn quân” nên bị bọn chúng dùng gạch đá đả thương nặng. Sau nhờ có Đại thần Văn Quân, Công Trinh, Duy Nhạc và rể là Tự Khanh Ngô Văn Dũ  thỉnh thầy thuốc chữa trị cả tháng mới phục hồi được. Đắc Bằng tập trung tâm trí soạn tập “Vịnh  sử” 詠史 kể từ thánh quân, hiền thần, trung thần cho đến hôn quân, gian thần... hơn 20 quyển; lại soạn “Cung trung bửu huấn” 恭忠寶訓, “Thập quy” 十規 để răn dạy, nhưng trên chẳng dụng, quan chẳng nghe. Nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình thế ông cáo quan.

5. Làm Thầy xứng với gương xưa:

Khi về nhà, Lương Đắc Bằng  mở trường dạy học và nghiên cứu lý số. Nguyên khi làm quan, Cụ thường được vua cử đi sứ Trung Hoa và làm tròn sứ mệnh ngoại giao và trong một dịp đi sứ, cụ có mang về bộ Thái Ất Thần kinh 太乙神經 để tham khảo[21]. Vừa dạy học, Cụ vừa tiếp tục nghiên cứu cuốn sách trên cho nên tinh nghề lý số, việc gì cũng tính biết được trước. Nghe tiếng và mến mộ Cụ nên Nguyễn Bỉnh Khiêm (阮秉謙, 1491-1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) tìm vào Thanh Hóa theo học. Nhận thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm tính tình khoáng đạt và thích lý số, nên Cụ truyền dạy và trao cho toàn bộ Thái Ất Thần kinh. Năm 1535 Nguyễn Bỉnh Khiêm ứng thí đỗ Trạng nguyên 狀元, làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư 吏部尚書, tước Trình Quốc Công, người đời thường gọi là Trạng Trình. Chính Cụ Trạng là người có công rèn cặp con thầy học là Lương Hữu Khánh thành tài và là người đưa ra lời khuyên cho các thế lực tranh chấp thời đó (Chúa Trịnh, vua Mạc, Chúa Nguyễn) về xử thế góp phần đỡ rối thêm tình hình đất nước. Cụ có truyền lại cuốn “Sấm Trạng Trình” 程讖 tiên đoán việc đời sau, gắn với nhiều giai thoại kỳ thú. Cụ rất thanh liêm và trọng đạo đức, dù làm quan mà gia cảnh rất nghèo, con phải đi gặt thuê để sống.
 Đến ngày 6 tháng 4 năm Hồng thuận thứ 7 (1516)[22], Trịnh Duy Sản 原郡公鄭惟產 vì khuyên vua, trái ý bị phạt, nên đã cùng Lê Quảng Độ đang đêm đem 3000 lính Kim ngô qua cửa Bắc thần, giết vua ở cửa Nam Huân trước điện Bảo Khánh, giáng làm Linh Ẩn Vương 靈隱王. Khi đó triều đình chạy tán loạn, không ai dám đến. Chỉ một mình quan Bảng nhãn đến khóc và làm lễ chôn cất[23].
Cũng năm đó Trần Cảo 陳高 dấy quân ở chùa Quỳnh Lâm, chiếm cứ các huyện Thủy Đường và Đông Triều thuộc Hải Dương, tự xưng là vua “Đế Thích giáng sinh” rồi kéo về vây hãm kinh thành. Lương Đắc Bằng thống lĩnh các dinh đem quân đánh Trần Cảo thu phục kinh thành, cùng các quần thần lập Lê Y 黎椅, 黎譓 lên làm vua. Dưới thời Lê Chiêu Tông (黎昭宗, 1506 – 1526) ông làm Ngự Dinh Tổng ký lục, nội Tri Kinh Diên, ngoại tham triều chính, thiên hạ có cơ phục hưng. Trong  khi đó mt lực ng mới tập trung quanh Mạc Đăng Dung trỗi dậy và quyền bính dần sang tay họ Mạc. Vào tháng 12 năm 1526, Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung (莫登庸莫太祖, 1483 ? – 1541) giết tại phường Đông Hà và đưa Lê Xuân 椿 lên làm vua, tức Lê Cung Hoàng (黎恭皇, 1522 – 1527). Song đó chỉ là con bài nên sau khi Chiêu Tông bị giết, Đăng Dung giả cách lui về quê ở Cổ Trai (thuộc Hải Phòng nay) nhưng thực tế vẫn nắm triều đình. Triều Lê Sơ (,1428-1527) đến hồi mạt.
Đúng dịp đó, ngày 5 tháng 7 Lương Đắc Bằng bị bệnh nặng mất.
Biết tin dữ đó, thiên hạ đều tiếc, Đô Ngự sử Đỗ Cang[24] khóc rằng: “Triết nhân sao nỡ chết, nước mắt còn huyết vây”…”Người trung nghĩa như Lương Đắc Bằng đã qua đời thì vận mệnh nước nhà sắp mất đến nơi rồi”. Nhận được tin, học trò về chịu tang rất đông, riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã về Hội Triều chịu tang thầy ba năm.
Lúc ấy kinh sư bị loạn không có ván gỗ, vua mới cho gỗ cấm trong cung làm quan tài, đưa về quê nhà ở Hội Triều mai táng[25]. Năm Quý Dậu[26] mộ phần được dời đến chôn ở Tây Trì Khái xứ (?), theo thế “tọa Bắc hướng Nam”[27].
Phu nhân của Bảng nhãn là Hoàng Thị Phục, con gái của Hoàng Quang Phát (hiệu Trung Ân phủ quân,  làm quan quản lĩnh trấn Thái Nguyên) và bà con gái quan Tổng binh sứ người Đại Tiến (nay là xã Hoằng Đại). Hai người không có con. Danh thần Lương Hữu Khánh là con của cụ Bảng nhãn với vợ bé lại chính là em bà Hoàng Thị Phục, được sinh ra sau khi ông mất 5 tháng.

6. Làm người tiếng đẹp để cho muôn đời:

Về tiểu sử Lương Đắc Bằng, nghiên cứu kỹ thấy có sự không nhất quán về năm sinh, năm mất cũng như công trạng của ông. Cụ thể:
Theo “Giới thiệu sơ lược về họ Lường Phủ làng Hội Triều” thì Lương Đắc Bằng sinh năm 1472, năm 12 tuổi thì cha mất và theo lời cha dặn, ông ra Cao Phương học trạng nguyên Lương Thế Vinh. Năm 24 tuổi đậu Giải Nguyên. Năm 28 tuổi đậu Bảng nhãn khoa Kỷ Mùi (1499) đời Lê Cảnh Thống. Dịp này vua ban tên mới là Lương Đắc Bằng. Ông mất ngày 5 tháng 7 năm Bính Tý (1516) tại quê nhà.
Còn “Họ Lương Hội triều Bổn đường gia phổ” lại chép về Lương Đắc Bằng hơi khác: Năm 22 tuổi đậu Giải nguyên, Năm Kỷ Mùi (1499) niên hiệu Cảnh thống vua Lê Hiến Tông, thi Hội đậu Tiến sĩ...., nhưng khi vào chầu tạ ơn vua, theo ý hoàng hậu trì Trạng nguyên phải là người trọng trấn, vì ông mới 22 tuổi nên vua mới khiến hạ bảng cho  đậu Bảng nhãn, lấy ông Đỗ lý Khiêm ở xã Ngoại lãng huyện Thơ trì đậu Trạng nguyên...
Đến năm Bính Tý (1516) Trần Cảo giết Trịnh Duy Sản đem quân hãm kinh thành. Ông thống lãnh các dinh đem quân đánh Trần Cảo thu phục kinh thành, cùng các quần thần lập vua Chiêu tông. Trong những năm Quang Thiện (1516- 1522) Ông khiến các tướng truy bắt đảng giặc, Trần tướng, Hà Phi Cao bắt được Lê Quảng Độ tướng của Trần Cảo, đóng cũi giải về kinh sư. Lúc này ông làm Ngự Dinh Tổng ký lục, nội Tri kinh diên, ngoại tham triều chính, thiên hạ có cơ phục hưng, nhưng ngày 5 tháng 7 ông bị bệnh nặng mất 59 tuổi, thiên hạ đều tiếc.
Theo suy đoán của tôi:
Danh hiệu Giải nguyên 解元 là giành cho người đỗ đầu kỳ thi Hương 乡試. Mà, học theo quy chế thi cử của nhà Minh, nhà Lê quy định kỳ thi sơ khởi này thường tổ chức vào mùa Thu các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, ai đỗ gọi là Cử nhân 鄉貢. Người đó tới mùa Xuân năm sau  (Sửu, Mùi, Thìn, Tuất) mới được dự thi kỳ thi Hội 会試 ở bộ Lễ giành danh hiệu Hội nguyên 會元. Ai đỗ kỳ này vào tiếp thi Đình 殿試 ở sân rồng giành danh hiệu Trạng nguyên 狀元, Bảng nhãn 榜眼, Thám hoa 探花. Mặt khác, từ năm Thuận Thiên thứ 6 (順天第六年,1433), Lê Thái Tổ (黎太祖, 1428-1433) quy định 6 năm một khoa, năm trước thi Hương, năm sau thi Hội. Tới tháng 2 năm Quý Mùi 癸未 1463 Lê Thánh Tông (黎聖宗,1442-1497) bắt đầu định ba năm thi đại tỉ 大比 một lần vào những năm Sửu, Mùi, Thìn và Tuất[28]. Như vậy, Lương Đắc Bằng thi Hội khoa Kỷ Mùi 1499 thì ông phải dự kỳ thi Hương trước đó 1 năm hoặc trước đó 4 năm chứ không có chuyện 22 tuổi cùng đỗ cả 2 kỳ được! Do đó có thể Lương Đắc Bằng sinh năm 1472, năm 24 tuổi đỗ Giải nguyên, năm 28 tuổi đỗ Bảng nhãn. Đồng thời: Cụ không thể thọ 59 tuổi được. Bởi nếu vậy thì năm mất của cụ là 1472+59=1531, khi đó đã hết thời Lê Sơ (後黎朝, 1428-1527) sang nhà Mạc (莫朝,1527-1592) rồi. Kết hợp lại có thể nhận xét Cụ thọ hơn 50 tuổi nên mất Bính Tý 1516 hay Bính Tuất 1526 hoặc khoảng giữa 2 mốc đó!
Vốn lúc lâm trọng bệnh, Lương Ðắc Bằng ủy thác Nguyễn Bỉnh Khiêm trông nom con mình. Sau này, Cụ Trạng đã làm theo lời dặn của thầy mà dạy Lương Hữu Khánh (梁有慶,1517 – 1590) thành tài, ngoài ra còn cưu mang con cháu của ân sư là cụ Lương Đắc Cam, Thủy tổ dòng họ Lương ở Tiên Lãng và An Lão.
Tuy không thọ nhiều, thời gian ông làm quan trải bốn triều vua thời Lê Sơ (Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục, Tương Dực) đã từng nhiều phen giúp mấy Vua giành, giữ ngai vàng; được trao nhiều chức vụ quan trọng, được thăng đến Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, tước Văn phái Hầu. Quan trường của ông không mấy hanh thông. Nhưng ông nổi tiếng bởi từng can gián Vua, dâng kế sách cải cách, sống thanh liêm, có uy tín lớn trong lớp nho sĩ danh thần. Đặc biệt ông đã đào tạo nhiều học trò trở thành người tài[29]; tính kế lâu dài cho con là Hữu Khánh thành Danh Thần, để đích tôn Khiêm Hanh (粱謙亨,1563-?) cũng không hổ danh.
Như thế ông đã để lại cho hậu thế nhiều bài học quý, xứng đại diện cho một dòng họ Khoa bảng[30] ở vùng quê nổi danh: “Địa linh nhân kiệt” 地靈人傑,  Đất thiêng sinh ra người tài giỏi, xuất chúng rồi lại vì người mà vùng đất ấy nên danh thắng”. Nhà Lê Trung hưng (黎中興,1533-1789) luận ông trung nghĩa, đức vọng cái thế, tặng ông: Thái bảo đôn trung Văn phái hầu, thuỵ Đạm Hiên tiên sinh.
Quê ông, làng Hội Triều có 14 dòng họ cộng cư chung sống. Làng chia làm 7 xóm: xóm Nghè, xóm Trường, xóm Trung Lương, xóm Quán, xóm Đá, xóm Đình và xóm Sau và họ Lương là dòng họ đến đầu tiên, là họ có nhiều vị đỗ đạt nhất và cũng là họ danh giá nhất làng. Tiếp theo là họ Trương, họ Lường, họ Hoàng Đình. Họ Lương Hội Triều nổi tiếng với Lương Đắc Bằng, Lương Hữu Khánh, Lương Khiêm Hanh, Lương Đạt đều là Tiến sĩ. Đồng thời dòng họ này còn nổi danh với 2 cha con là thầy dậy của 2 Trạng nguyên tài giỏi nước Nam. Đó là người cha - Giải nguyên Lương Hay là thầy học của Trạng lường Lương Thế Vinh và người con - Bảng nhãn Lương Đắc Bằng là thầy học của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đến lượt mình các ông Trạng này, theo di huấn và để trả ơn, họ lại rèn cặp con thầy nên người: Lương Thế Vinh dạy con Lương Hay là Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy con Lương Đắc Bằng là Lương Hữu Khánh. Quả là thầy giỏi rèn nên trò tài, đạo thầy trò xưa quả sâu sắc và 5 thế hệ truyền thừa (Lương Hay-Lương Thế Vinh-Lương Đắc Bằng-Nguyễn Bỉnh Khiêm-Lương Hữa Khánh) với 4 thầy, 4 trò, 2 Trạng nguyên, 2 Thượng thư là hiện tượng hiếm thấy trong lịch sử!
Lương Đắc Bằng được một số chi họ suy tôn là Thượng Thủy Tổ dòng họ, trong đó có họ Lương ở Tiên Lãng và An Lão thuộc Hải Phòng[31]. Đáng tiếc, trong các tư liệu đã tìm thấy và viện dẫn ở trên không thấy chép việc có con cháu cụ Bảng nhãn sang xứ Đông nhờ cậy cụ Trạng Trình là ai, quan hệ với Cụ thế nào, vào thời gian nào? Việc này chỉ có Gia phả họ Lương Tiên Lãng chép! Mặt khác, như phần “1.5. Truy oan, họ vẫn ngoan cường” đã tìm hiểu thì rất có thể Tổ thượng Lương Đắc Cam là con cháu Đô đốc Lương Thế Khôi đến nương nhờ Cụ Lương Đắc Bằng và Bảng nhãn đã thay tên lót của họ để che dấu tung tích, bảo vệ giọt máu của Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Nhưng tuân theo truyền ngôn của tiền nhân, tôi vẫn tìm hiểu và chép chuyện Bảng nhãn Thượng thư Lương Đắc Bằng vào đây để ghi nhớ.
Chúng ta suy tôn Cụ là Thủy tổ dòng họ không phải theo kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ” mà là tôn trọng lời truyền của tổ tiên và đối chiếu với lịch sử thấy hợp lý nên cho là xác tín. Có thể do một nguyên nhân nào đó mà Gia phả quê gốc bỏ sót[32] hay lược đi hoặc ở đâu đó có chép mà bị thất lạc, chưa phát lộ hay chưa được khai thác!. Cần công nhận điều lưu truyền và chép trong Gia phả của ngành nhánh nơi đến, đặc biệt những cuốn Phả cũ.


 -Lương Đức Mến (trích từ chuyên khảo: ĐI TÌM CỘI NGUỒN DÒNG HỌ)-




[1] Thực ra trong 墓都府君 “Phủ quân” 府君 thì Phủ là đại danh từ thay vào tên một cách tôn trọng, cung kính các cụ. Phải chăng đây không phải là tôn hiệu mà chỉ là cách nói cung kính chỉ rõ Cụ là người Mô Độ (Yên Mô, nay là Tam Điệp thuộc Ninh Bình)? Nhưng còn địa danh làng Ngò thuộc Hậu Lộc, Thánh Hóa?
[2] Theo ông Hoàng Đình Khảm thì các vị trên đây không phải là trực hệ và ba vị: Lương Thế Vĩnh, Lương Tiệm Gíác, Lương Danh Luật là không có thực vì các lý do sau đây:
- Lương Nhữ Hốt tận trung với nhà Minh, thì làm sao lại có chuyện trong khi ông Lương Nhữ Hốt làm quan cho nhà Minh thì người con do ông sinh ra là Lương Thế Vĩnh lại làm Toát Tẩu đại tướng quân cho Lê Thái tổ.
- Lương Nhữ Hốt làm việc cho nhà Minh từ năm 1407 còn thế tổ Lương Tôn Huệ sinh ra giải nguyên Lương Hay năm 1401. Không thể có trường hơp người đời thứ nhất cùng lứa tuổi với người chút ruột đời thứ sáu. Nhiều người đọc, trong đó có nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam cũng nêu nghi vấn như vậy trong sách “ Họ Lương trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.
 - Về thế thứ, từ cụ Lương Tôn Huệ đến cụ Hàn Tạo là 17 đời, trong văn bia kỷ niệm đã ghi nhận cụ Hàn Tạo là cháu đời thứ 17 của cụ Lương Nhữ Hốt. Như vậy cụ Lương Tôn Huệ ngang vai với cụ Lương Nhữ Hốt, do đó có thể xếp cụ Lương Tôn Huệ vào đời thứ Tư, cùng hàng với cụ Lương Nhữ Hốt.
[3] Phả cũ ghi thế tổ Lương Tôn Huệ thi đậu Tiến sĩ thời Trần là không có căn cứ, trong sách “Danh Sĩ Thanh Hóa”, và các sách địa chí tỉnh Thanh Hóa, địa chí huyện Hoằng Hóa đều không có tên trong nên lược bỏ.
[4] Chính sử không chép năm 1460 có kỳ thi mà là năm Nhâm Ngọ, 1462.
[5] Có tài liệu viết 1477-1526, tức cụ mất năm Bính Tuất, 1526 đời Lê Cung Hoàng vào dịp Trần Cảo đã kéo quân uy hiếp kinh thành. Sẽ bàn về việc này ở đoạn sau.
[6] Ông là một nho sĩ có học vấn uyên bác, một nhà giáo ưu tú, đã có công đào tạo cho nước nhà nhiều nhân tài lỗi lạc và là người mở đầu giai đoạn phát triển rực rỡ về văn hóa của quê hương Hội Triều. Hơn nữa việc cụ sinh  con (LĐB) ở tuổi 72 (1472-1401) cũng là một sự xưa nay hiếm!
[7] Bài thơ “Nho Tăng đồng chu” theo Phan Kế Bính viết trong sách Nam Hải Dị Nhân là của danh thần Lương Hữu Khánh, con Lương Đắc Bằng.
[8] Trước đó, các khoa thi đời Lý gọi là khoa thi Minh kinh bác học, đời Trần-Hồ gọi là khoa thi Thái học sinh. Lúc đầu chưa đặt các danh hiệu, chỉ chia người thi đỗ làm 3 hạng (Tam giáp 三甲). Từ khoa Đinh Mùi Thiên Ứng Chính Bình 16 thứ (天應政平第十六年, 1247) đời Trần Thái Tông mới đặt dạnh hiệu cho 3 người đỗ cao nhất (thuộc hàng Nhất giáp 第第一甲) là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa lang (sau gọi gọn là Thám hoa).
[9] Thân Nhân Trung (1419-1499) tự Hậu Phủ , người xã Yên Ninh huyện Yên Dũng (nay thuộc xã Ninh Sơn huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang), đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông. Ông giữ các chức quan, như Thượng thư Bộ Lại, Chưởng Hàn lâm viện sự kiêm Đông các Đại học sĩ, Nhập nội Phụ chính, Tế tửu Quốc tử giám; là thành viên của Hội Tao Đàn và được vua Lê Thánh Tông phong làm Tao Đàn Phó Nguyên soái.
[10] Ông tự là Tường Phủ, người xã Hồng Liễu huyện Trường Tân (nay là thôn Thanh Liễu xã Tân Hưng huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương). Ông làm quan đến chức Đô Ngự sử, hai lần được cử đi sứ sang nhà Minh, được về trí sĩ. Ông có công dạy nghề khắc ván in cho dân Hồng Liễu. Sau khi mất, dân làng tôn thờ ông làm thành hoàng.
[11] “Đề điệu” 調: viên quan đứng đầu chịu trách nhiệm toàn bộ công việc của trường thi. Giúp việc có: “Tuần xước” 巡綽: tuần tra canh gác trong ngoài trường thi; “Thu quyển” 收卷: thu các quyển thi của thí sinh; “Di phong” 彌封: quan rọc phách, niêm phong các quyển thi; “Đằng lục” 謄錄: người sao chép bài thi của thí sinh (ngày trước không chấm bài trên các văn bản chính); “Đối độc”: người đọc soát bản sao so với bản chính.
[12] Ngày xưa gọi cái nhà để thi khảo là "vi", vì thế nên thi Hương gọi là "Thu vi" 秋闈, thi Hội gọi là “Xuân vi Hội thí" 春闈會試.  Kỳ thi cuối diễn ra tại sân Rồng gọi là “Đình thí” 廷試 .
[13] Nghĩa đen là cái màn của năm thân vương. Theo tích Đường Huyền Tông yêu quý anh em, khi mới lên ngôi, cho làm cái màn rộng, gối dài, chăn to để vua và năm anh em thân vương cùng nằm.
[14] Đỗ Lý Khiêm ( ? - ? ) người xã Dong Lãng, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ ( Nay là huyện Vũ Thư , Thái Bình ). Làm quan đến Phó đô Ngự sử. Đi sứ nhà Minh bị mất ở dọc đường.
[15] Đêm Trung thu ngắm trăng tại đình Quan Giá. Đình Quan Giá là nơi vua ra xem việc trồng cấy của dân.
[16] Nội dung có đoạn : "Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, lần lữa mới gần 5 năm mà tội ác đã đủ muôn khoé. Giết hại người cốt nhục, dìm hãm các thần liêu. Bọn ngoại thích được tin dùng mà phường đuôi chó ngang ngược làm bậy, người cứng cỏi bị ruồng bỏ mà kẻ đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính. Đãi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác ngạo mạn quá cả Nguỵ Oanh. Huống chi lại xây cung thất to, làm vườn hoa rộng. Xua dân đi trồng cây, giẫm theo vết xe đổ chất gò Hoa Cương đời Tống; lấp biển xây cung điện, nối gót thói u mê xây cung A Phòng nhà Tần. Công trình thổ mộc xây lên rồi thay đổi, thay đổi rồi xây lên, dân Hải Dương, Kinh Bắc mệt mỏi, lao đao; tông thất xa hoa, kiêu căng lại ngang ngược, ngang ngược lại kiêu căng, cõi tứ tuyên phiên trấn xôn xao, rối loạn. Cư dân nhức óc, cả nước đau lòng".
[17] Mở đầu Trị bình thập tứ sách, Lương Đắc Bằng chỉ rõ “Thánh quân ngày xưa không cho thiên hạ thịnh trị mà quên lòng răn ngừa; hiền thần ngày xưa không thấy vui thành công mà quên lòng can gián. Vì thế thời Ngu Thuấn đã thịnh trị mà Bá Ích vẫn can vua: “Chớ ham nhàn rỗi, chớ đắm vui chơi, không trễ không lười, để công việc quốc gia bê trễ”. Đế Thuấn nghe lời mà ngăn ngừa những việc đáng răn, do đó đã trở thành bậc thánh lớn. Đời Văn Hán Đế (179-163 tCn) dân đã giàu có đông đúc rồi mà Giả Nghị vẫn dâng kế sách nói rằng đất nước đang ở trong tình trạng “để lửa gần củi” Văn Đế nghe lời can này mà lo nghĩ việc đáng lo, do đó nên bậc vua hiền”. 
Lương Đắc Bằng chỉ rõ tình hình đất nước từ khi vua lên ngôi: “Khí hòa thuận chưa điều tiết, việc binh đao chưa dẹp yên, triều cương chưa cất nhấc, quân chính chưa sửa sang, tai dị thường xuất hiện, đạo trời chưa được thuận, đạo đất chưa được yên, kẻ gian phi lén phát, bọn nghịch tặc manh lòng, lòng người chưa yên ổn...”. 
Từ thực tế đó, Lương Đắc Bằng đã dâng lên vua 14 kế sách như sau:
1. Hết lòng răn sợ để dập tắt biến cố tai dị.
2. Dốc lòng làm điều hiếu thảo để khuyến khích lòng trung hậu.
3. Xa bỏ con hát, sắc đẹp để giữ vững căn bản lòng người.
4. Trừ bỏ gian nịnh để nguồn gốc phong hóa được trong sạch.
5. Dè sẻn trong việc ban đặt quan chức để cẩn thận việc khuyên răn.
6. Công bằng trong việc bổ dụng để trong sạch đường làm quan.
7. Tiết độ trong việc dùng tiền tài để khuyến khích thói kiệm phác.
8. Khen thưởng người tiết nghĩa để trọng đạo cương thường.
9. Cấm ăn của đút để trừ bỏ thói tham ô.
10. Sửa võ bị để nước mạnh thế chống giữ.
11. Lựa chọn người can ngăn ở Ngự sử đài để cổ vũ chí khí người mạnh dạn dám nói lời ngay thẳng.
12. Giảm nhẹ việc lực dịch để nuôi dưỡng sức dân.
13. Ban hành pháp luật đúng đắn để thống nhất tâm chí bốn phương.
14. Cẩn thận pháp độ để mở đời thịnh trị thái bình”.
Ông còn viết: Các chước trên đây dâng lên mong bệ hạ soi xét. Thần lại nghe cổ ngữ có câu: “Lời nói của người cắt cỏ kiếm củi, thánh nhân cũng có thể chọn lấy”. Kinh thư có câu: “Biết không khó, làm mới khó”. Vậy xin bệ hạ chớ cho lời thần là viển vông, nên lựa chọn mà làm, răn điều nên răn, lo điều nên lo thì đạo trời được thuận, đạo đất được yên, đạo người được hoa, mới đến thái bình được”.
[18] Tuy kế sách trên không thể thực hiện được do hạn chế của thời cuộc, song lịch sử vẫn ghi nhận Lương Đắc Bằng là một nhà cải cách xuất sắc hồi thế kỷ XVI. Những đề xuất của Lương Đắc Bằng mà ngày nay suy ngẫm ta vẫn thấy nhiều điều còn mang tính thời sự nóng hổi.
[19] Gia phả còn chép đoạn khen Lương Đắc Bằng: “may nước Nam có những người như ông, còn khá duy trì”.
[20] Đại việt sử ký chép: “Quý Dậu, [Hồng Thuận] năm thứ 5 [1513], (Minh Chính Đức năm thứ 8). Tháng giêng, ngày 26, nhà Minh sai chánh sứ là Hàn lâm viện biên tu Trạm Nhược Thuỷ, phó sứ là Hình khoa hữu cấp sự trung Phan Hy Tăng sang sách phòng vua làm An Nam Quốc Vương và ban cho một bộ áo mũ quan võ bằng da, một bộ thường phục. ... Đến khi về, vua tặng biếu rất hậu. Nhược Thuỷ và Hy Tăng không nhận. Vua làm thơ tiễn Nhược Thuỷ…” .Tức là chỉ chép thơ tiễn của Vua và họa lại của sứ, không nói đến chuyện Lương Đắc Bằng tiễn sứ đến biên ải và họa thơ vào năm 1511 như trong Gia phả.
[21] Theo truyền thuyết là một di nhân hậu duệ Lương Nhữ Hốt sống ở Vân Nam đưa cho.
[22] Giai đoạn này sử gia Trần Trọng Kim đã mô tả: “Thời bấy giờ vua thì hoang chơi, triều thần thì tuy là có bọn ông Nguyễn Văn Lang 阮文郎, ông Lê Tung 黎嵩, ông Lương Đắc Bằng 梁得朋, v.v... nhưng người thì già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh doanh được việc nước, cho nên trong nước giặc giã nổi lên khắp cả mọi nơi…”.
[23] Chính sử không chép chuyện này. Nguyên trong ĐVSKTT là “… Sản sai vũ sĩ là tên Hạnh [28b] cầm giáo đâm vua ngã ngựa chết rồi giết chết…Đem xác vua về quán Bắc Sứ, khâm liệm rồi đem thiêu. Có thuyết nói: Để xác ngang trên mình ngựa, đem về cửa Nam Thiệu ở viện Đãi Lậu, chỗ phủ Tể tướng. Khâm Đức hoàng hậu (tên thuỵ là Đôn Tiết), cũng tự nhảy vào lửa chết. Quân sĩ đem hai quan tài về chôn ở làng Ngự Thiên, giáng phong vua làm Linh Ẩn Vương (nay có điện Quang Hiếu ở xã Mỹ Xá, huyện Ngự Thiên)…
[24] Có lẽ Tộc phả viết chữ Nhân thành chữ  Cương  . Đỗ Nhân (杜絪, 1474-1518) người làng Lại Ốc, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, đỗ tiến sĩ khi 20 tuổi, đổi tên là Đỗ Nhạc , để tránh tên hiệu của vua là Nhân Hải 仁 海. Sau khi phụng mệnh vua Lê Thánh Tông đi sứ nhà Minh, được phong làm Thượng thư bộ Hộ, kiêm Đô ngự sử, Đại học sĩ đông các, vào giảng bài trong điện Kinh diên.
Tháng 9 năm 1518, nhân chuyện thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng mang quân nổi dậy đánh vào kinh thành báo thù cho chủ, quyền thần Mạc Đăng Dung bức Chiêu Tông rời điện Thuần Mỹ. Đỗ Nhân cùng Phó đô ngự sử Nguyễn Dự can. Mạc Đăng Dung liền sai đồ đảng là Đinh Mộng bắt hai người đến ruộng dâu ngoài cửa bắc hành dinh Xuân Đỗ rồi giết. Vậy Lương Đắc Bằng phải mất trước tháng 9/1518, mà như vậy thì thế tổ Lương Hữu Khánh phải ra đời vào cuối năm 1517 hoặc đầu năm 1518.
[25] Nhiều tài liệu nói Cụ mất tại quê chứ không phải ở kinh thành.
Ông Hoàng Đình Khảm đã có  nhận xét: Không có tài liệu nào nói đến năm mất của cụ Lương đắc Bằng, chỉ suy luận từ phả viết rằng cụ có công phù lập vua Lê Chiêu Tông vào năm 1516. Phả còn cho biết khi cụ Bằng mất, thì đô ngự sử Đỗ Cương vô cùng tiếc thương đã vỗ bàn mà khóc, thời này không có ai làm đô ngự sử tên là Đỗ Cương mà ngài Đô ngự sử Đỗ Nhân bị Mạc đăng Dung giết năm 1517. Suy ra cụ Lương đắc Bằng mất trong năm 1516.
“Lịch triều hiến chương loại chí” chép cụ đỗ Bảng nhãn khoa thi Quý Mùi (1499) lúc 28 tuổi, tức cụ sinh năm 1472 và  đoạn cuối chép “Hơn 50 tuổi thì mất”.
GSTS Lương Ngọc Toản cho rằng Cụ mất năm 1522.
[26] Nếu là 1516 (Bính Tý) thì sau đó 7 năm mới có năm Quý Dậu còn năm 1526 (Bính Tuất) thì sau 7 năm chỉ có năm Quý Tị (1533) và sau 12 năm là Đinh Dậu (1537). Chuyện này chưa rõ thế nào.
[27] Nguyên văn: Tý Sơn Ngọ Hướng. Đây là thuật ngữ trong việc định hướng nhà, hướng mộ. Theo Tam nguyên Long thì có 24 sơn và 8 hướng, bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), có 4 sơn dương và 4 sơn âm. Trong đó Tý-Ngọ-Mão-Dậu là 4 sơn âm của Thiên nguyên Long; Nhâm-Tý-Quý thuộc Bắc còn Bính-Ngọ- Đinh thuộc Nam.
[28] Chính kỳ thi năm đó Lương Thế Vinh 梁世榮 đỗ Trạng nguyên trong kỳ thi Đình 殿試 vào ngày 16/2.
[29]  Như Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Bảng nhãn Nguyễn Mẫu Đối, Hoàng giáp Lại Kim Bảng, tiến sĩ Đinh Bạt Tụy… và đặc biệt là Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm.
[30] Chế độ thi cử Nho học với các kỳ thi là Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình và người đỗ được liệt kê tên họ vào cái bảng danh dự nên được gọi là Khoa bảng 科牓.
[31] Không rõ bác Lương Đức Công và bố tôi nghe ai và các cụ căn cứ  nguồn tư liệu nào mà kể lại với tôi như vậy. Nay các cụ đã về hầu Tiên tổ cả, số còn sống chả ai biết ất giáp gì!
[32] Ngay như việc 7 gia đình họ Lương gốc Phương Lạp (nay là Phương Hạ), xã Chiến Thắng, huyện An Lão lên khai hoang ở Lào Cai những năm 1962-1970 mà trong Sổ họ Đại tôn ở quê lập năm 1980 có ghi đâu, Gia phả các Chi càng không chép. Mãi tới  ngày 01/8/1999 (20 tháng 6 Kỉ Mão) khi vợ chồng tôi về quê thông qua bản thảo cuốn: Lược thuật về Lương tộc và gia đình tôi mới bổ sung, nhưng còn thiếu chi chõ nhà anh Thuế bên Trì Quang. Vài đời sau cứ căn cứ vào tư liệu tại quê gốc thì lần đâu ra?

3 nhận xét:

  1. CHUYỆN ‘ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ” của Khoa thi năm Kỷ Mùi 1499:

    Chuyện rằng: tại kỳ thi Đình, khi xét bài thi, các quan thấy điểm của Đỗ Lý Khiêm và Lương Đắc Bằng không ai vượt ai mà bằng nhau nên đành xem kỹ lại bài thi thì câu văn trong bài của Lương Đắc Bằng có phần trội hơn. Trước tình huống đó, các quan không biết làm thế nào đành tâu trình, xin vua quyết. Theo đề xuất của đại thần, vua Lê Hiến Tông cho hai người làm một bài ứng chế thêm. Lạ kỳ là sau khi làm bài ứng chế, Đỗ Lý Khiêm và Lương Đắc Bằng vẫn bằng điểm nhau; vua lại phải đích thân ra thêm một đề, lấy tên là văn "bái mạng".

    Là người có tính cương trực, tự cho là mình còn kém tài Lương Đắc Bằng nên Đỗ Lý Khiêm có ý muốn nhường danh hiệu Trạng nguyên, vì thế khi làm bài văn "bái mạng" ông chỉ viết qua loa, chiếu lệ cho có mà không dốc hết tài học để viết. Bài làm xong được trình lên, vua Lê Hiến Tông đọc đến bài của Đỗ Lý Khiêm thấy câu văn, ý tứ kém xa các bài trước mới đoán ra suy nghĩ của ông, bèn nói với Lương Đắc Bằng.
    Biết được điều này, Lương Đắc Bằng xin nhận kém hơn, bày tỏ mong muốn vua chấm Đỗ Lý Khiêm làm trạng. Thế là hai người nhất mực nhường nhau làm vua Lê Hiến Tông băn khoăn, chưa biết quyết thế nào.
    Các quan đành nghĩ ra một cách xin vua cho vẽ một vòng tròn trên sân rồng rồi tung quyển thi của hai người vào đó. Kết quả quyển thi của Đỗ Lý Khiêm rơi trúng vòng tròn, còn quyển thi của Lương Đắc Bằng rơi ra ngoài, vua liền công nhận Đỗ Lý Khiêm đỗ Trạng nguyên, Lương Đắc Bằng đỗ Bảng nhãn.

    Chẳng mấy chốc câu chuyện trên được lưu truyền ra ngoài, người đương thời liền đặt câu ca về quan Trạng Đỗ Lý Khiêm như sau:
    Thực thi thì đỗ Trạng
    Làm văn bái mạng chỉ Bảng nhãn thôi.
    Còn Lương Đắc Bằng, dân chúng cũng ưu ái viết về ông bằng câu ca rằng:
    Thực thi thì Bảng nhãn
    Làm văn bái mạng lại đỗ Trạng nguyên.

    Nguồn Zing Blog (http://me.zing.vn/zb/dt/luuchuong_gl1957/19019807?from=category)

    Trả lờiXóa
  2. Đỗ Lý Khiêm, về sau ông đổi tên là Đỗ Lý Ích, người xã Ngoại Lãng, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc xã Song Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Sau khi đỗ Trạng, ông làm quan đến chức Phó đô Ngự sử, một năm vâng mệnh đi sứ phương Bắc nhưng mắc bệnh, mất ở dọc đường, triều đình thương tiếc phong làm Phúc thần, sai dân thờ cúng ghi nhớ.

    Bài viết: Nhường nhau học vị Trạng nguyên…tích Lương Đắc Bằng

    Nguồn
    Zing Blog

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết cũ cách đây 3 năm ở đây: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2011/04/bang-nhan-luong-ac-bang_19.html

    Trả lờiXóa

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!