Thiên nhiên tạo ra con người và muôn vật. Trong đó con người là sản phẩm hoàn hảo nhất của tạo hóa. Trải bao thời gian, xã hội loài người phân chia ra giai cấp. Cũng từ đó thân phận từng người, từng gia đình khác nhau. Lý giải sự khác nhau đó, dân gian cho rằng tại “số” và luôn tìm cách cải tiến số mệnh mình. Từ đó xuất hiện vô vàn cách “cầu cứu” khác nhau và tồn tại dai dẳng trong mọi lớp người.
Thực hư, cơ sở thực tiễn và khoa học của vấn đề nằm ở đâu? Mỗi “thảo dân” cũng cần biết đôi chút để tự cải biến vận mệnh mình và tránh bị lôi kéo vào những việc làm vô bổ.
1. Con người là sản phẩm của mẹ cha:
Việt Nam là nước đa tôn giáo. Song do nhiều nguyên nhân mà phần lớn gia đình ở nước ta là gia đình ảnh hưởng bởi Nho giáo. Ngày nay đâu đâu cũng nói đến tự do hôn nhân, đến tình yêu, đến trách nhiệm gia đình...Song xem ra nhiều vấn đề đã “xuống cấp". Nhớ xưa có câu: “Phi túc trái bất thành phu phụ, Phi ân oán bất thành phụ tử”. Như vậy chỉ có “duyên nợ” mới thành chồng vợ và quan hệ con cái với cha mẹ là quan hệ “ân oán”. Đây chính là điểm mấu chốt trong vấn đề chọn tuổi, lấy lá số cho mỗi người.
Chính vì muốn tương lai con cháu tốt đẹp, khi lấy vợ, gả chồng cổ nhân thường chú ý đến việc “so tuổi”, chọn ngày, Việc này kiểm lại ngay trong gia đình tôi cũng thấy có tác dụng lớn. Cha tôi sinh năm Quí Hợi 癸亥-1923, Mệnh : Đại Hải Thủy 大海水, Nước biển lớn), Cung : Khôn 坤, Niên mệnh năm sinh: Thổ 土; Mẹ sinh năm Giáp Tý 甲子-1924, Mệnh: Hải Trung Kim (海中金, vàng dưới biển), Cung: Khôn 坤, Niên mệnh năm sinh: Thổ 土.
Như vậy xét về sự hợp sinh thì: Mệnh Cha: Âm Thủy, mệnh Mẹ: Dương Kim được “Tương Sinh”; Thiên can của Cha: Qúy, của Mẹ: Giáp đạt “Bình”; Địa chi Cha: Hợi, Địa chi Mẹ: Tí đạt “Bình”; Cung của Cha: Khôn, của Mẹ: Khôn được “Phục Vị”; Niên mệnh năm sinh Cha: Thổ, của Mẹ : Thổ đạt “Bình”. Tổng hợp: 1 Tương sinh, 03 Bình và 1 Phục vị-Tốt. Hơn nữa, sách còn viết: Cha Quý lấy Mẹ Tý: đặng giàu sang, con cái thi đỗ cao, nếu tha phương thì có nhiều đại lợi.
Hai cung mệnh Khôn phối hợp nhau, sách có câu:
Cha Khôn lấy Mẹ cung Khôn,
Keo sơn gắn bó cháu con vẹn toàn.
Trung niên mấy lượt thăng trầm,
Hậu vận phú quý trăm phần phong lưu!
Keo sơn gắn bó cháu con vẹn toàn.
Trung niên mấy lượt thăng trầm,
Hậu vận phú quý trăm phần phong lưu!
Sự phối hai cung Khôn thành Phục vị (復位, Fu Wei) mà theo Bát quái cung này thuộc sao Tả Phù là một trong bát cung an tại tám hướng nhà trong Phong thủy. Mẹ Cha hợp mạng được cung này thì gia trang được bình yên, vững vàng, tình duyên gắn bó, khả năng tài chính tốt, quan hệ Gia đình tốt; hậu vận thanh nhàn.
Nghiệm lại, tôi thấy cũng khá đúng. Khi Cha còn sống tôi từng hỏi, Người nói: Ông Bác bố tôi là thầy Đồ, biết xem và bên Ngoại tôi các Cậu (quê tôi anh Mẹ cũng gọi là Cậu) đều là người có học, biết về Lý số nhưng Cha-Mẹ tôi lấy nhau là bởi "duyên số" chứ không có "xem xét" gì. Hay như tháng 2 năm 1964, gia đình rời quê Hải Phòng đi khai hoang tại Lào Cai là do bố và chú tôi tình nguyện và sự phân công của tổ chức chứ không phải vì để ứng quẻ "xa quê thì Đại lợi" của đôi Khôn-Khôn ứng cung Phục vị. Đúng là "Thiên định" chắc hơn "Nhân định"! Từ chuyện Cha Mẹ tôi và gia cảnh nhà mình, nên vào năm 1992, nhân dịp Mừng thọ Cha tuổi 70, kỷ niệm 45 năm ngày Mẹ tôi về làm dâu họ Lương, tôi đã viết đôi câu đối sau:
Bẩy mươi tuổi, trải lắm gian nan -
Giờ trông: Con Cháu Thảo Hiền,Vui vạn Tết;
Giờ trông: Con Cháu Thảo Hiền,Vui vạn Tết;
Bốn Nhăm năm, qua nhiều lận đận -
Nay ngẫm: Vợ Chồng Hạnh phúc, Đẹp ngàn Xuân.
Nay ngẫm: Vợ Chồng Hạnh phúc, Đẹp ngàn Xuân.
Trở lại bàn về "số mệnh", ngay trong các bài viết của các nhà chiêm tinh học chính tông (mà tôi đã được đọc) và chiêm nghiệm qua thực tế thấy sự linh nghiệm của phép tử vi, bói toán chỉ mang tính xác xuất. Một người dù có “Lá số Tử vi đẹp” đến đâu nhưng không học hành, rèn luyện, làm lụng gì thì suốt đời chẳng nên sự nghiệp. Đó là chưa tính đến chuyện "thầy" đọc sai hay cố tình sai do một trắc ẩn nào đấy! Điều này, ngay từ xa xưa cổ nhân đã đúc kết: 一分二缘三風土四積阴公五讀书 “Nhất phận, nhì duyên, tam phong thổ, tứ tích âm công, ngũ độc thư”, nghĩa là: thứ Nhất là có số mệnh, thứ Hai là nhờ cơ duyên, thứ Ba là vì phong thuỷ, bốn là do Phúc Đức đời trước, thứ Năm là bởi học hành.
Con cái là sản phẩm di truyền của Cha, Mẹ (ADN Ty thể các con đều nhận từ mẹ, ADN-Y người Cha chỉ truyền cho con trai) nên vận số đời người trước hết là ở gia đình và chi phối nặng bởi dòng Bố. Trong đó “âm đức” là phúc đức tổ tiên cha mẹ để lại cho cháu con. “Cha mẹ sinh con trời sinh tính” nhưng vai trò giáo dục (ngũ độc thư) rất quan trọng. Do đó khi Nguyễn Du viết “Ngẫm xem muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao” là lúc Đại văn hào muốn gửi một lời than chứ chắc Cụ chẳng quên câu “Xưa nay Nhân định thắng Thiên cũng nhiều” 汖哰人定勝天拱蜫.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng viết: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” “Sống ở trên đời người cũng vậy, Gian nan rèn luyện mới thành công” hay như câu Tục ngữ”Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Do đó bậc làm cha mẹ phải khuyên răn, kèm cặp, dạy dỗ con cái chớ “há miệng chờ sung” hoặc trăm thứ đều đổ cho số mệnh cả.
2. Con người là “Tiểu vũ trụ”:
Là sản phẩm hoàn thiện nhất của sinh giới, con người sống trên quả đất, chịu tác động của các quy luật tự nhiên giống như các sự vật khác. Quan điểm “Nhân thân-tiểu Vũ trụ” 人身小宇宙, “Thiên-Địa-Nhân” 天地人 là quan điểm cơ bản trong thuật dự báo vận số.
Mỗi con người sinh ra tại những thời điểm, những vị trí khác nhau trên trái đất 地毬, trong những gia đình khác nhau, chịu ảnh hưởng khác nhau của các “hành tinh” (行星, tinh ngôi sao di chuyển) và “định tinh” (定星, đứng yên), như: mặt Trời 太陽; mặt Trăng 太陰; các ngôi sao: Thuỷ 水星, Kim 金星, Hoả 火星, Mộc 木星, Thổ 土星... cùng các tia vũ trụ, các yếu tố thừa hưởng, ảnh hưởng từ gia đình khác nhau.
Đồng thời con người còn bị chi phối bởi những chu kỳ sinh học, chẳng hạn như chu kỳ trí tuệ, sức khoẻ và tâm lý. Chính vì thế mỗi người có một xuất phát điểm khác nhau, một quá trình sinh hoạt bị chi phối bởi những chu kỳ khác nhau, người xưa gọi đó là “Thiên mệnh”.
Con người còn phục thuộc vào gen di truyền, vào môi trường sinh hoạt, vào vị trí địa lý và nỗ lực mỗi cá nhân. Cổ nhân cho rằng “Mệnh” (chữ 命 trong “Duy thiên chi mệnh” 維天之命) được quyết định bởi Tứ trụ sinh còn “Vận” 運 , là “Thời” 時, kết hợp lại gọi là Vận mệnh hay Vận số.
3. Con người là sản phẩm tổng hòa các mối quan hệ:
Chính vì các yếu tố “Thiên”, “Địa”, “Nhân” khác nhau mà hai người sinh cùng một thời điểm nhưng lại có số mệnh khác nhau. Do đó ta có thể ước lượng số mệnh con người qua hàm số: “Số mệnh = Thiên mệnh + Địa mệnh + Nhân mệnh”.
Về Thiên mệnh con người chịu sự chi phối của các chu kỳ là: Chu kỳ ngày đêm “sáng-tối” (theo 12 giờ Can Chi), Chu kỳ tuần Trăng “tròn-khuyết-không trăng” (trung bình 28 ngày với bán chu kỳ là những ngày con nước), Chu kỳ khí hậu (5 ngày là một Hậu, 3 Hậu là một Khí, 2 Khí là một Tháng), Chu kỳ 4 mùa (Xuân-Hạ-Thu-Đông tương ứng với Sinh-Trưởng-Thâu-Tàng), Chu kỳ Thiên Can 10 năm, Địa Chi 12 năm (ứng với chu kì “bùng nổ” của mặt trời 11,5 năm). Thuyết Tam Tài Thiên-Địa-Nhân) cho rằng trong Số mệnh mỗi người thì Thiên mệnh chiếm 60 %, gồm Bản mệnh (Tử vi, Tứ trụ) 18%; Đại vận ảnh hưởng 30%, Lưu niên ảnh hưởng 12%.
Về Nhân mệnh - Địa mệnh con người chụi ảnh hưởng nhiều của di truyền, hoàn cảnh sống, trình độ đòa tạo và môi trờng giáo dục. Theo thuyết Tam tài thì chúng chiếm 40 % số mệnh mỗi người. Trong đó bao gồm các yếu tố: Phong thuỷ Địa lý 10%; Ý chí bản thân 10%; Tích đức hành thiện 8%; Xã hội hoàn cảnh môi trường sống 4%; Giáo dục trình độ 4% và Tính danh (tên gọi) ảnh hưởng 4%.
“Khôn ở Cha, Khéo bởi Mẹ” song kết quả đến với mỗi người nó phụ thuộc nhiều vào Thời, vào Địa, vào sự rèn luyện.
Thực tế 30 năm công tác, khi tham gia giải quyết nhiều vụ mang tính thảm họa có hàng chục nguời thiệt mạng mà tôi thấy đâu cùng mệnh, cùng cung. Hoặc ngược lại, tuy chung một ông Tổ, nhà cách nhau đúng ba bước chân, cùng một tháng sinh mà cuộc đời tôi và người cháu gọi tôi bằng chú họ hiện ở quê khác nhau hẳn. Việc này, khi tìm tư liệu và soạn thảo Lương tộc Gia phả 梁族家譜 tôi thấy rõ và trong phần kết tôi có viết một đoạn như sau:
« ...Cũng từ đó càng thấm thía rằng: mỗi người sinh ra đều đã mang sẵn dòng máu Tổ tiên. Cũng 天時 Thiên thời, 地利 Địa lợi ấy và cùng 本源 gốc sinh ra nhưng người thì trưởng thành, mát mặt, người lại lận đận, thăng trầm. Đó là bởi tại yếu tố 人和 Nhân hòa trong mỗi người, mỗi nhà, mỗi chi, mỗi phái ở từng 時 Thời khác nhau. Mặt khác: “Địa linh sinh nhân kiệt” 地靈生人傑, không có sai. Nhưng chỉ là tiềm năng và cổ nhân đã từng dạy: “Tiên tích Đức, hậu tầm Long” 先積德後尋龍 nên sự phấn đấu cá nhân rất quan trọng. Mỗi thành viên phải tự cố gắng mới phát huy được cái thế mà tiền nhân đã tạo ra, trao gửi và cần sự quyết chí từng bước đi lên bằng đôi chân của mình trong sự phù hộ của tổ tiên, trong vòng tay họ mạc sẽ tạo dựng được cuộc sống tốt đẹp. Vì thế mới có cảnh: “Chú, cháu cùng một ngày sinh, Chú nên quan tỉnh, cháu thành tù nhân”».
Do vậy tính cách, vận mệnh mỗi người phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chứ đâu phụ thuộc chỉ vào "số"!.
Điều đó càng nhắc chúng ta câu đúc kết của tiền nhân: “Nhất Phúc, Nhì Mệnh, Tam Phong Thủy, Tứ Hạnh và Ngũ Giáo Huấn”. Trong đó nguyên tắc thứ nhất là Phúc và nguyên tắc thứ hai là Mệnh thì bản thân con người khó thể “cải tạo” được còn ba nguyên tắc sau chúng ta có thể chủ động góp phần để cuộc sống được tốt đẹp hơn. Mặt khác, người xưa có câu: 皇天不負好心人 “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Lại nhớ câu: "Không ai giầu ba họ, chẳng ai khó ba đời" nên hãy gắng sống cho tốt, chắc chắn sẽ giữ được sản nghiệp, gia phong tổ tiên để lại hoặc cải biến đời mình sáng sủa hơn.
Còn thế nào là “sống Tốt” lại phụ thuộc vào thời đại, mội trường sống và bản thân cách hiểu của mỗi người.
-Những ngày chuẩn bị Tổng kết năm 2011-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!