1. Lược sử:
Bà tên là Lưu Thị Bính
Bà sinh năm Mậu Thìn-1928 (có người và có hôm bà nói với tôi là bà tuổi Tân Mùi, tức là sinh năm 1931), quê thôn Hạ Lũng, An Hải, Hải Phòng. Đây là một làng ven đô thuộc phường Đằng Hải, quận Hải An nay. Từ xưa vốn nổi tiếng về trồng cây trái, hoa tươi, quả ngọt cung cấp cho thị trường. Nơi đây có Miếu Hạ Lũng là một trong hệ thống các công trình kiến trúc cổ mà nhân dân dựng nên để ghi nhớ công lao của Ngô Vương Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938.
Bà nhanh nhẹ, hoạt bát, hiểu việc đời.
Chú thím tôi cưới nhau hồi đầu “kháng chiến 9 năm”.
Chuyện rằng: hồi 9 năm thím sơ tán về làng Hương buôn bán, trọ ở nhà chị gái bác Ruẩn. Bà này muốn làm mối thím cho em trai mình là Trương Tiếp (anh bác Lương Đức Ruẩn). Trong khi đó bên ngành nhà tôi lại muốn cưới cho chú tôi là Lương Đức Rật để chú khỏi “lêu lổng”. Ngày đó xã có qui định: dân nơi khác đến (trong đó có thím Bính) tối tối phải ra đình ngủ tập trung (chắc có vai trò của các anh Tiêm, Hiệp và bố tôi đều là cán bộ thôn xã). Nhờ chú tôi là du kích “bảo lãnh” thím được “chiếu cố” và sau đó đã đồng ý lấy chú. Bà nội tôi làm mấy mâm mời đội du kích và thành đám cưới. Đổi lại anh Tiếp (em anh Tiêm, năm 1964 cũng lên Lào Cai, ở Xuân Quang, đã mất năm 2003) phải đổi tên thành Thiếp (theo ý gia đình bác Ruẩn). Bác Trương Tiếp sau đó mất, chưa con.
Chú tôi lấy vợ nhưng đất ông tôi để lại hẹp nên vẫn ở chung với bà và bố tôi (lấy mẹ tôi sau).
Ở quê, đất hẹp, xoay đủ nghề mà không khá lên được. Cuối cuộc kháng chiến từng cùng chú tôi chèo đò đưa cán bộ, du kích qua sông ở Bến Khuể, góp phần làm nên chiến tích “địch vận” hạ Bót Khuể để đén 1950 xã Cảnh Hưng và Kim Lĩnh Thượng nhập một thành xã Chiến Thắng như từ đó đến ngày nay!.
Sau CCRĐ, trong một dịp diễn văn nghệ thôn, chú tôi đóng vai Đổng Trác đã mượn rá của hàng xóm độn bụng, rá vỡ, thím tôi phải đền.
Các bậc cao niên kể chuyện khi mẹ tôi sinh ra tôi đã rất yếu, quấy khóc hoài. khi mẹ sinh Thuộc vẫn phải bế tôi và cho bú. Năm tôi 2, 3 tuổi mụn nhọt đầy đầu, tiêu chảy không cầm, nói sõi nhưng chỉ lết không biết đi, gia đình đã tưởng không nuôi nổi (nên tôi có biệt danh: Mến đầu to mà nay ở quê nhiều người còn nhớ. Khi tôi lớn An ,con chú Rật,vẫn hay trêu: nhà bác có Mến đầu to, cái bụng thì ỏng,đít mòn đến xương). Thím Bính thấy tôi thèm ăn, bà nghĩ rằng:đằng nào tôi cũng“bỏ đi” nên “liều” cho mấy miếng thịt sống đang thái .Nhưng sau đó tôi lại khỏi. Chẳng qua là Suy dinh dưỡng nhưng các cụ“kiêng” quá mức nên lại càng suy !
Khi lên Lào Cai (02/2964) thím từng làm đội trưởng ĐSX, đại biểu HĐND xã. Năm 1974 đã đưa em gái (Tích-Chập), em trai (Hưng-Túp) và người bà con (Chỉ-Hội, sau này con gái gả cho em ruột tôi là Thuộc và con Thím là Quang) lên Lào Cai cùng ở trong An Phong. Khi thôi công tác, buôn hàng vải hỗ trợ con cái.
Trong cuộc chiến 279 vì có 2 con trai đang tại ngũ nên lấn cấn mãi và là một trong những người “sơ tán” khỏi An Phong sau cùng.
Trong khi tham gia chuyên án 882 S, một lần ra km 36 đón xe từ Mường Khương về tỉnh lị ở Yên Bái, tôi ăn cơm trưa với thím. Không dè đó là bữa cuối cùng tôi ăn com với bà!
Năm 1988 bà ốm nặng do Cao huyết áp. Thực ra bà ốm đã lâu, ở nhà Quang ngoài đường chỗ km36 QL7, giấu con cái không chịu uống thuốc.
Khi mệt nặng mới đưa vào nhà Tràng trong thôn.
Nhận được điện thoại ở cơ quan (ngày ấy chưa có di động và điện thoại bàn khá hiếm), tôi ra Nam Cường (thị xã Yên Bái) báo có con gái bà là Vinh. Tôi và Vinh (con út thím) ở Yên Bái lên từ hôm trước nhưng lúc đó thím cũng không còn nói được gì.
Bà mất lúc 3 giờ sáng Thứ Tư ngày 15/6/1988 (02-5 Mậu Thân). Lúc truy điệu tôi có đọc bài tế mọi người bảo được. Rất tiếc đã quên, chỉ còn nhớ đôi câu đối viết trên bức trướng:
Thay chồng: nuôi dạy con,tròn đạo Hiếu-Rạng danh dâu Thảo.
Thương con:chăm sóc cháu,vẹn nghĩa Tình-xứng tiếng mẹ Hiền.
2. Ông bà sinh nhiều bận, nuôi đến trưởng thành có 6 :
1- Lương Đức An (1949-1967): Liệt sĩ CMCN
2- Lương Thị Dưỡng (1952-2004) sinh 3 trai, 2 gái; các cháu nay ở Phong Niên, Bảo Thắng.
3- Lương Thị Sinh (1955-1994): sinh 2 gái, 1 trai các cháu ở Bắc Hà.
4- Lương Đức Tràng: vợ là con gái dì ruột tôi, sinh 4 gái (trưởng thành còn 3), 1 trai. Các cháu sinh sống ở Hà Nội, Lào Cai.
5- Lương Đức Quang: vợ là em ruột vợ Lương Đức Thuộc; sinh 1 trai, 1 gái; các cháu sinh sống tại Hà Nội, Lào Cai.
6- Lương Thị Vinh cồng là Lê Đăng Biên (Hoàn): sinh 2 trai, gia đình ở Hà Nội.
- Lương Đức Mến, 11/6/2010-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!