Vì cụ Lẫm mất sớm, vô tự nên con cháu của người con thứ Tư (cụ Tú) thành hậu duệ ngành Ba.
1. Đệ Tam Chi Tổ: Lương Công Tú 第三枝宗 梁公秀
Cụ lấy 4 vợ (Nhượng, Dụng, Châu, Chiền), sinh 7 nam (Xưng, Hanh, Lân, Mã, Ly, Phượng).
Kỵ 29/5, Mộ phần tại bản quán. Con cháu cư ngụ Mông Tràng Hạ, sau ở làng Hương và xóm Trại cùng Tổng, đổi là Lương Đức. Về sau một số con cháu vào Nam (1954, 1975), lên Lào Cai (1964-1971), số đông vẫn ở lại quê cũ[1].
2- Hậu duệ ngành Ba :
Ở lại Phương Lạp. Là Cụ Tổ ngành Ba[2]. Con cháu đổi thành Lương Đức chuyển đi nhiều nơi. Chép theo các bà vợ là :
2.1- Bà cả: Đào Thị Cỏn (Nhượng) :
Người cùng làng. Kị ngày 18/2, không con. Cụ thạo việc, quán xuyến giỏi nhưng rất ghen[3]. Lúc đầu định không cho chồng lấy vợ lẽ, sau đổi ý cưới cho chồng 3 người thiếp nữa. Theo truyền lại thì Cụ Đồ Thiệu lập kế, cho người nhà ra cày ruộng của cụ Tú và nói rằng: “anh chị không người nối dõi, ruộng để em làm, không người ngoài họ lấy mất, phí đi”. Cụ Cỏn (Nhượng) biết chuyện, bực quá mới để cho cụ ông lấy thêm thiếp và thề rằng kể cả lấy người ăn mày, nếu người này có con.
2.2- Bà hai: Nguyễn Thị Dụng:
Cụ người Đông Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Mất ngày 19/2.
Bà này sinh được 01 nam là Lương Đức[4] Xưng (kị 27/02 hay 27/Giêng), vợ là Vũ Thị Đào, kị 15/10.
L.Đ. Xưng sinh 2 Nam là: L.Đ.Hợp, L.Đ.Hoà.
2.2.1- Hậu duệ đã vào Nam:
L.Đ. Hợp 合 (kị 04/9) sinh ra L.Đ. Nhuận 润. Cụ Nhuận có 9 nam (Thưởng, Khiết, ?...), theo đạo Thiên chúa, di cư vào Nam năm 1954 sau Hiệp định Giơnevơ. Khi nước nhà Thống nhất (sau 1975) một số (Miễu) tiếp tục vào Sài Gòn sinh sống. Tại quê không còn ai.
2.2.2- Hậu duệ ở Tôn Lộc:
* Đời 4 : L.Đ. Hoà 和 (kị 04/9 hay 03/7 ?) vợ là Nguyễn Thị Tích (15/6) sinh ra L.Đ. Ổn 稳 và L.Đ. Mục 穆.
* Đời 5: L.Đ.Ổn[5] từng làm Chánh tổng 正總 tước Bá hộ 伯户 đã đưa gia đình xuống vỡ hoang cạnh Cốc Tràng, gần đê Văn Úc lập ra xóm Trại (Tôn Lộc, cách làng cũ 1, 5 Km). Cụ sinh 8 Nam:
* Đời 6 : Thắng (vô tự), Liên (con là Phất, Bường), Tuế (con là Toái, Tức, Sưu, Thuế), Sắc (con là Xảo, Bạt, Trù, Cấy), Nhương (con là Thao, Lợi), Toại (vô tự), Chuyển (vô tự), Thiểm ( mất 08 tháng G Mậu Tý 2008, 1 LS còn 1 là Hiền) và 3 nữ (Nghiêm, Cậy, Đoàn). Trong hậu duệ cụ Ổn có :
* Đời 7 :
L.Đ. Bường : sau về Hạ ở và giữ phần cúng Tổ ngành (19/2).
L.Đ. Trù ( SN 1933, là con trai L.Đ.Sắc, vợ là Hoàng Thị Phệ) ở Lộc có con là Vương (SN 1962), lấy P.T. Bòn (SN 1963) ở Cốc Tràng[6]. Vương - Bòn được 2 trai là Cương (SN 1990) và Quyền (1991).
2.2.3- Hậu duệ chuyển nơi khác:
L.Đ. Mục chuyển sang Tứ Kỳ, Hải Dương. Cụ sinh 3 Nam đã đi Tân thế giới, 3 gái ở bên Hải Dương không liên lạc gì với dòng tộc.
2.2.4- Hậu duệ lên Lào Cai (LƯƠNG ĐỨC THUẾ):
L.Đ. Thuế[7]: SN 1929, con cụ Tuế, vợ là Trần Thị Nhung, người làng Mĩ Lang, Mĩ Đức, An Lão. Do không có đất ở Tôn Lộc đã lên Kim Côn làm ăn rồi lại trở về làng, đến 1971 lên lập nghiệp ở thôn Nhò Trong, xã Trì Quang, Bảo Thắng.
Sinh 10 con, trưởng thành 9, có 5 nam, 4 nữ:
* Đời thứ 8 (thế hệ 2 ở Trì Quang) : L.Đ.Trường (trước là Ưởng, SN 1958), L.T.Nhinh (1959), L.Đ.Nghiệp (1962), L.T.Dinh (1965), L.Đ.Năm (1968), L.Đ.Sáu (1971), L.T.Bẩy (1974), L.Đ.Hậu (1980), L.T.Mười (1983). Tất cả mấy cha con đều làm nông nghiệp ở quanh Đội 4, Nhò Trong, Trì Quang; không ai đi công tác hay làm ăn xa nơi đây.
2.3- Bà Ba: Hoàng Thị Châu:
Cụ người Tôn Lộc, không rõ ngày kị và mộ phần. Là thân mẫu của: Lương Đức Hanh[8].
2.3.1. Hậu duệ còn ở quê:
Đông hộ, khẩu
2.3.2. Hậu duệ lên Lào Cai:
Con cháu Lương Đức Thân, Lương đức Rất, Lương đức Thiếp.
2.4- Bà tư: Đặng Thị Chiền:
Cụ người Vĩnh Lại 永賴, Hán Chiều. Sinh 4 nam là Lân, Mã, Li, Phượng.
* Đời thứ 3: L.Đ.Lân sinh tam nam: Hổ, Vũ, Nghiêm; L.Đ Mã sinh 2 nam: Hồi, Quế; L.Đ.Ly sinh 2 nam: ?, Lâu; L.Đ.Phượng sinh Mỹ.
* Đời thứ 4: L.Đ.Hổ sinh 4 nam: Hoằng, Quyến, Hiển, Hiểu; L.Đ.Vũ sinh 2 nam: Dũng, Mãnh; L.Đ.Nghiêm sinh: Giảng, Thuyết, Nghị, Huyến; L.Đ. Hồi sinh Sâm, Truật…
Con cháu ở Hạ[9], một số theo Đạo Thiên chúa giáo.
Ghi chú:
[1] Là Tổ ngành của tôi nên sẽ chép kỹ sau
[2] Là con thứ Tư nhưng vì cụ Lẫm không có con nên hậu duệ cụ Tú thành ngành Ba. Từ đây trở đi chủ yếu chép về ngành này và những người trực hệ với tôi.
[3] Các bậc cao niên có kể lại rằng: trước khi đi ngủ cụ cho Cụ ông vào túi vải rồi thắt miệng túi lại
[4] Từ đời thứ 3 con cháu ngành trưởng, ba và út lấy chữ Đức 德 làm tên đệm.
[5] Theo một số người nhớ lại thì cụ Bá ổn là người có công nhiều với dòng họ:dựng lại Từ đường,cùng với cụ Bá Lăng lập mưu đổ vụ cụ Cai Huỳnh đâm chết người cho nhà cụ Chánh Mai để nhẹ tội. Nghe đâu trận này máu chảy thấm ruộng cày, Quan về bắt có 8 nam phải đi tù.
[6] Chính là chị Bòn con gái Cậu Kiểm ,anh trai cả mẹ tôi,chị là con bà hai.Do đó theo họ Mẹ tôi gọi Vương là anh,theo họ Nội thì Vương gọi tôi là chú.Vương có nhà ở ngay quán Hương.
[7] Đời thứ 7,bằng vai và là anh tôi,. Vì sinh kế đã từng lên Kim Côn làm ăn sau lại về làng. Khi đó ruộng đất đã bị anh em chia phần hết, bỏ đi Lào Cai. Vì vậy, giận với anh em nên ra đi và cũng ít về quê.
[8] Trực hệ với tôi, sẽ viết kỹ ở đời sau.
[9] Ít liên quan đến gia đình tôi nên tôi chưa nhớ ai là Trưởng Chi này, chưa liên hệ với ai nên không có tư liệu để chép ra đây. Tôi chỉ biết rằng trong số hậu duệ hiện tại có cháu xa đời của cụ Cai Hoàng là Thửa (con chú Táp, cháu ông Hiến) lấy vợ ở Cốc Tràng không hiểu thuộc dòng này hay dòng cụ Huỳnh.
19 tháng 12 2009
Hậu duệ ngành thứ Ba
Trong mục
4a. Sơ lược về HẬU DUỆ CÁC NGÀNH
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Cám ơn bạn đến thăm nhà
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!