Có những vấn đề tưởng như đã khép lại, song không hẳn vậy! Gần đây, trên một trang của người họ ta thấy có video “dã sử” về quá trình hình thành và mở rộng lãnh thổ Việt Nam khá là bắt mắt! Phải nói đó là một clip hay, có ích với giới trẻ!
Buồn một nỗi, người đưa video lên hình như chỉ nhằm khẳng định một điều rằng: bên Trung Quốc từng có những nước mang tên “Lương” và đấy là tổ tiên, cội nguồn của họ ta!
Đó là một nhận thức sai lầm cả về quan điểm, về khoa học và thực tế lịch sử! Do vậy, dù đã viết nhiều, tôi buộc phải có stt này để nói rõ thêm đôi điều.
Trước hết, thống nhất lại rằng, chúng ta chỉ khảo cứu về NGUỒN GỐC TỘC DANH, tức nguồn gốc tên gọi chỉ dòng họ chứ cội nguồn dòng họ, tức đi tìm cụ Tổ đầu tiên của cả một dòng họ thì điều mong muốn đó là không tưởng, bởi có câu “tiền tiền vô thủy, hậu hậu vô chung” (前前無始後後無終, nghĩa là không có khởi đầu, không có chấm hết!. Do vậy, ở đây tôi chỉ khảo cứu về nguồn gốc danh từ chỉ tộc danh “Lương”, không thể khảo cứu về nguồn gốc “những người họ Lương” được!
Nhưng, có thể khẳng định ngay mà không sợ sai rằng KHÔNG PHẢI AI
HỌ LƯƠNG CŨNG CÓ GỐC GÁC BÊN BẮC QUỐC: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2016/11/khong-phai-tat-ca-ho-luong-viet-nam-la.html . Tất nhiên, ngoài những giả thiết nêu trong bài, còn có những giả thiết khác nhưng là cá biệt. Hoặc
những dân ngụ cư nhận người họ Lương ở vùng có đông người mang họ đó để dễ sống
thì đời nào cũng có. Căn bản là các thuyết hình thành nên tộc danh Lương 梁氏 mà tôi đã tổng hợp được chép trong bài trên.
Ai cũng biết rằng, lịch sử Trung Quốc là lịch sử “合久必分,分久必合” “phân cửu tất hợp hợp cửu tất phân” nên trong lịch sử từng có thời kỳ mà trong phạm vi đất nước rộng lớn này có tới hàng nghìn tiểu quốc, vương quốc, đặc biệt trong thời “bách gia tranh minh” 百家爭鳴. Do vậy, có những Tiểu quốc mang tên “Lương” không có gì lạ và hiếm gặp! Cùng lược qua nha:
1.Tên tiểu quốc thời Chu
1.1. Vào thời Chu Bình Vương (周平王, 770 tCn-720 tCn) con Tần Trọng (秦仲, đứng đầu Tần công quốc, 854 tCn-822 tCn) là Doanh Kỳ 嬴其 Tần Trang công (秦莊公, trị vì: 821 tCn- 778 tCn) có công thảo phạt Tây Nhung 西戎 được nhà Chu nhường đất Lương Sơn 梁山, Hạ Dương 夏陽 (nay là Hàn Thành, Thiểm Tây, 陜西省韓城縣南) cho người con thứ là Doanh Khang 嬴康 lập nước Lương 梁國. Đến thời Xuân Thu (春秋時代, 722 tCn-481 tCn) nước này mất vào Tần quốc 秦國 bởi Tần Mục Công (秦穆公, 659 tCn-621 tCn). Họ Lương ra đời từ tên nước vào năm 641 tCn và phát triển mạnh tại vùng Thiểm Tây, TQ ngày nay và đó là hậu duệ của Lương Khang Bá (梁康伯, người có công trợ giúp Đại Vũ 大禹 trị thủy được Đế Thuấn 帝舜 ban họ “Doanh” 嬴姓).
1.2. Ngụy Huệ Thành vương (魏惠成王; trị vì: 369 tCn - 319 tCn hay 369 tCn - 335 tCn) còn gọi là Ngụy Huệ vương 魏惠王, tên thật là Ngụy Oanh hay Ngụy Anh 魏罃, là vị vua thứ ba của nước Ngụy (魏國, 403 tCn –225 tCn) - chư hầu nhà Chu 周朝, 1122 tCn –249 tCn) trong thời kỳ Chiến Quốc (戰國時代 , TK tCn -221 tCn) của Lịch sử Trung Quốc.
Tháng 4 năm 361 tCn, Ngụy Huệ vương muốn hùng bá Trung Nguyên bèn thiên đô từ An Ấp sang Đại Lương (大梁, nay là Khai Phong). Từ đó nước Nguỵ còn được gọi là nước Lương 梁國 còn Ngụy Huệ vương được gọi là Lương Huệ vương 梁惠王. Sau nước này bị Tần, Sở diệt, con cháu lấy tên nước làm họ. Người họ Lương vùng Hà Nam 河南 nay chắc là hậu duệ dòng này.
2. 5 Tiểu quốc Lương trong thời Thập lục quốc
Trong thời Thập lục quốc 十六國 hay “Ngũ Hồ loạn Hoa” (五胡亂花, năm dân tộc Hồ làm loạn Trung Hoa) từ năm 304 đến 439 sau sự rút lui của Nhà Tấn (265-420) về miền nam Trung Quốc và trước khi Bắc Triều được thành lập, gồm: Hán Triệu (漢趙, 304-329), Hậu Triệu (後趙, 319-352), Thành Hán (成漢, 304-347), Tiền Lương (前凉, 320–376), Hậu Lương (後凉, 386-403), Bắc Lương (北凉, 397 – 439), Tây Lương (西凉, 400 – 420), Nam Lương (南凉, 397 – 414), Tiền Yên (前燕337-370), Hậu Yên (後燕, 384-409), Bắc Yên (北燕, 409-436), Nam Yên (南燕, 398 – 410), Tiền Tần (前秦, 351-394), Hậu Tần (後秦, 384 – 417), Tây Tần (西秦, 385-431) và Hạ (夏, 407-431).
Đáng chú ý, 5 nước “Lương” là Tiền Lương (前凉, 320–376), Hậu Lương (後凉, 386-403), Bắc Lương (北凉, 397 – 439), Tây Lương (西凉, 400 – 420), Nam Lương (南凉, 397 – 414) sử dụng chữ 涼 có chấm Thuỷ 氵và chữ kinh 京 có nghĩa là mỏng, lạnh để ghi quốc danh mà ngày nay người họ Lương ở Bắc Trung Quốc sử dụng chứ người họ Lương ở Nam Trung Quốc Việt Nam không dùng. Chúng ta dùng chữ lương khác, chữ 梁 với bộ mộc 木 !.
3.Các triều đại Lương thời Nam Bắc triều và Ngũ đế:
Năm 436, Bắc Ngụy 北魏 đánh Bắc Yên 北焉, bắt vua Yên là Phùng Hoàng. Nước Bắc Lương 北涼 còn lại trơ trọi cũng không tồn tại được lâu. Năm 439, Thác Bạt Đào đánh, bắt được vua Lương là Thủ Cừ Mục Kiền. Cục diện Ngũ Hồ loạn Hoa hơn 100 năm với hơn 20 quốc gia chấm dứt. Toàn thể phương bắc được thống nhất trong tay Bắc Ngụy 北魏. Ở miền nam trong tay nhà Lưu Tống 劉宋 với khởi thủy là Lưu Dụ (劉裕, 363-422), sử gọi thời kỳ này là thời Nam Bắc triều (南北朝,420-579). Tiếp theo là sự cai trị của triều Tuỳ (隋,580-618) rồi nhà Đường (唐朝, 618 –907).
Nam Lương: Trong bối cảnh trên, Tiêu Diễn (蕭衍, 464-549), tự Thúc Đạt 叔達, người làng Trung Đô, lăng Nam Lan (nay là tây bắc huyện Võ Tiến, tỉnh Giang Tô) được vua Nam Tề (南齐朝, 459-502) là Hòa Đế Bảo Dung ((和帝寶融, 488–502) trao ngôi, lập ra nước Lương (梁朝 hay 南梁, 502 - 549), tức Lương Vũ Đế 梁武帝 thời Nam Bắc triều (南北朝, 420-579). Vị vua này rất sùng Phật giáo, đã 4 lần bỏ ngai vàng vào chùa tu (517, 527, 529, 547), từng tổ chức soạn ra bộ kinh Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp, rồi nhờ chư tăng trì tụng kinh Sám Hối cầu siêu cho vợ mình là Hi Thị được thoát lạc. Phép sám hối đó, còn truyền tụng đến ngày nay, gọi tắt là Lương Hoàng Sám. Nhưng ông bị chết đói do phản tướng là Hà Nam Vương Hầu Cảnh vây Đài Thành.
Nhà Tây Lương (西梁, 555-587), với kinh đô nằm ở Giang Lăng năm 555 của Lương Tuyên Đế Tiêu Sát (西梁宣帝蕭詧, 519–562), cháu nội của người sáng lập ra nhà Lương (Lương Vũ Đế Tiêu Diễn), được cho là triều đại kế vị hợp pháp của nhà Lương; trên thực tế chỉ là chư hầu của các triều đại kế tiếp nhau như nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, nhà Tùy và chỉ kiểm soát được một lãnh địa nhỏ và phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ quân sự của ngoại bang. Cuối cùng, triều đại này bị Tùy Văn Đế Dương Kiên (隋文帝楊堅, 541-604) xóa bỏ năm 587.
Có tài liệu ghi cả Đại Lương (大梁, 618-621) do một hậu duệ của Lương Tuyên Đế lập nên vào thời nhà Tuỳ, đóng đô ở Giang Lăng, có cương vực: phía Đông tới Cửu Giang, Tây tới Tam Hợp, Bắc giáp Hán Thuỷ, Nam giáp Giao Chỉ. Nhà Đại Lương bị diệt năm 621 bởi Vũ Đức Lý Uyên (武德李淵, 618-626) lập ra nhà Đường (唐朝, 618 – 907).
Nhà Hậu Lương (后梁, 後梁,) là triều đại mở đầu thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc (五代十國, 907-960) do Chu Ôn (朱溫, còn gọi là Chu Toàn Trung 朱全忠, 852–912) giết Đường Chiêu Tông (唐昭宗, 867-904) rồi phế Đường Ai Đế (唐哀帝, 892 – 908) tự lập. Sau suy tôn thành Lương Thái Tổ (後梁太祖, năm 907), đóng đô ở Biện Lương (Khai Phong) và kết thúc bởi Lương Mạt Đế Chu Hữu Trinh (後梁末帝朱友貞, 888-923) vào năm 923 bởi tay Lý Tồn Húc (李存勖, 885-926) mở ra Hậu Đường (后唐, 923-936).
Theo dõi lược khảo trên ta thấy có 10 Công quốc, Tiểu quốc, Vương quốc mang quốc danh “lương” thì người đứng đầu không hề là họ Lương mà là họ Doanh 嬴姓, họ Ngụy 魏姓, họ Tiêu 蕭姓, họ Chu 朱姓 và họ khác. Riêng 5 tiểu quốc Lương phía Bắc sử dụng chữ 涼 có chấm Thuỷ 氵và chữ kinh 京 có nghĩa là mỏng, lạnh để ghi quốc danh!
Các triều đại 朝 bên Trung Hoa không phải là họ của Hoàng gia 皇氏 do vậy các triều nhà Lương bên Tầu vua không mang họ Lương. Như vậy các Lương Quốc bên đó chả liên quan gì đến họ Lương. Có liên quan chăng là, theo kiểu “lấy tên nước làm họ” 以國為氏 mà con cháu người dân vùng ấy đổi sang họ Lương mà đấy là họ Lương vùng đó, bên đó!
Còn với chúng ta, chúng ta là người Việt, là “con Rồng cháu Tiên”, là HỌ LƯƠNG VIỆT NAM! Xin khắc ghi điều đương nhiên đó, đừng vơ quàng, nhận xiên, mang tội với tổ tông, dòng tộc!
-Lương Đức Mến, 26/6/2021-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!