Hồi năm kia, lần đầu đi họp “cán bộ cơ sở khu dân cư” ở Hội trường nhớn, gặp khối người quen: một số là cấp trên, đồng cấp, thuộc cấp, cấp dưới và có người từng phối thuộc thuở còn “đương” nữa ! Nên thấy “lạ” mà “quen”, “quen” mà “lạ”.
Lần sau, lần sau nữa vẫn thế, đâm ra chả còn “lạ” mà là “quen”, “quen thực sự”! (Tranh mh trong bài lấy trên MXH)
Trong một bận, giải lao, có ông tiếng là hay chữ bảo: ngày trước chúng ta làm Cách mạng chống “quan lại phong kiến” bây giờ lại cùng nhau “làm quan lại” !
Thấy vừa đúng lại vừa chưa chuẩn, nên cần nói rõ thêm thế này:
Về từ ngữ, nguyên gốc Quan lại (官吏, A: Mandarin (bureaucrat), P: Mandarin (fonctionnaire)), là tầng lớp quan chức, chỉ chung những người trong bộ máy nhà nước phong kiến ở ta trước 8/1945. Nhớ rằng chỉ tính từ cấp huyện trở lên còn dưới đó là “chức dịch”. Trong “quan lại” có 2 thành tố. Thứ nhất, “quan” 官 là chỉ người giữ một chức việc cho nhà nước, công chức; như: “huyện quan” 縣官 quan huyện. Còn “lại” 吏 cũng chỉ viên quan, người làm việc cho nhà nước nhưng là người thừa hành và ở cấp thấp hơn; như thông lại 通吏, đề lại 題吏,...
Thời quân chủ, có nhiều cách phân chia thứ hạng để xếp quyền và bổng lộc nhưng đại thể, cổ nhân chia hệ thống quan chức ra làm hai ban Văn-Võ, cả hai đều phân ra 9 bậc gọi là Cửu phẩm, mỗi bậc lại phân thành Chính và Tòng. Trừ những khi có “uýnh nhau” còn thời kì yên bình thì quan Văn được coi trọng hơn quan Võ.
Như thế, rõ ràng “quan lại” là tầng lớp trên, “đè đầu cưỡi cổ” nhân dân và cùng với chức dịch làng xã tạo thành một hệ thống cai trị từ cơ sở đến thượng tầng!
Trở lại tình cảnh của một số hưu nhân thời nay.
Theo nguyên nghĩa, “hưu” mà Hán tự ghi bằng chữ 休, với hình tượng “người ngồi dựa gốc cây”, tức nghỉ ngơi nên khi làm quan già về nghỉ gọi là hưu trí 休致, là lui về, thôi không làm chức việc nữa tức “bãi hưu” 罷休. Có lẽ vì vậy mà Âu Dương Tu (歐陽修, 1007-1072) viết trong Túy ông đình kí 醉翁亭記: “Hành giả hưu ư thụ” 行者休於樹 và Bạch Cư Dị (白居易, 772 – 846) trong bài Tự vấn 自問 có viết: “Quan đồ khí vị dĩ am tận, Ngũ thập bất hưu hà nhật hưu?” 官途氣味已諳盡, 五十不休何日休 tạm dịch là “Mùi vị quan trường đã rõ hết, Năm mươi tuổi không lui về thì ngày nào lui về?”.
Như thế, “hưu” là “đặc sản” của công chức viên chức (mà không rõ từ bao giờ lớp người này được dân gian và báo chí “xưng tụng” là “quan cách mạng”! ) khi hết hạn tuổi phục vụ cao nhất, đến thời gian “gác kiếm”, rời ghế, trả con dấu! Và, cũng theo đúng nghĩa, từ đó họ được nghỉ ngơi, vui thú điền viên,…
Nhưng, lại nhưng nữa, chả biết tự bao giờ, những người này lại “xông ra” (hay buộc “chường mặt ra”) gánh việc xã hội. Đành rằng họ được khu dân cư bầu, được đồng chí tín nhiệm,… !
“Tận dụng” vốn kinh nghiệm, sức khỏe, trí tuệ của lớp người này là cần thiết. Nhưng “lạm dụng quá, nên chăng? Vô hình chung, họ đã “chiếm chỗ” của người khác và cái ghế ấy, suất phụ cấp đó lẽ ra có người khác được hưởng!
Từ đó hình thành nên một lớp “quan lại” mới mà lớp người này, nếu dùng Hán tự không phải ghi bằng chữ 官吏 với nghĩa “cai trị dân” mà với nghĩa “lại ra làm quan”, “làm quan lần hai”, tức “tái quan” 官再 và khi đó, chữ “quan” đã mang hơi hướng “cai trị”, “sắp xếp’ rồi! Chữ “lại” khi đó là 賴 có ý lần lữa như “lại sàng” 賴床, tức nằm ỳ trên giường! Vậy đâu có tốt đẹp hay hớm gì!
Thế mà từ tháng 02/2020 mình đã “trở lại vũ trường” tham gia vào đội ngũ làm “quan lại” theo nghĩa 2 đấy!
Rõ là chúng ta đang “làm quan lại” nhưng không còn là “quan lại”
nữa! Phải chăng, cũng là một biểu hiện của “tham nhũng quyền lực”, của bệnh “tham
quyền cố vị” 參拳故位? Được một tia động viên, rằng: như trên đã nói, từ thời xưa “quan lại” là các chức quan từ cấp huyện trở lên mà chức đó thì nay tuyền cán bộ “chính quy”, bằng cấp đầy mình, ai dùng mấy ông đã hết “đát”! Thế là ta vẫn không phải là “quan lại”!
Nhưng dù sao, vẫn là “lại làm quan” và nếu đúng vậy, nên bỏ chế định này!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!