Thế hệ Mẹ, Bà chúng tôi trở về trước chỉ quanh quẩn trong lũy tre làng và có thể không biết chữ, nhưng hầu như đều được giáo dục về “Tam tòng tứ đức” 三從四德. Chính điều đó đã giúp những người chồng, những đứa con yên tâm học hành, phấn đấu để mà thành đạt và gia đình ấm êm, chứ tổ ấm gia đình không mong manh dễ vỡ như thời @ ngày nay!
Quan niệm này, ngày nay bị nhiều người lên án, cho rằng lạc hậu. Nhưng nghiên cứu kỹ và từ thực tế gia đình dòng họ, từ những gia đình xung quanh tôi thấy nhều người chưa hiểu rõ, hiểu đúng về chuẩn mực đó! Chính cái mù mờ đó và chính việc thực hiện sai đã dẫn đến những hệ quả đáng tiếc trong thời hiện đại!
1. Cội nguồn của tư tưởng
Do “sơn thủy tương liên, văn hóa tương thông” 山水相连, 文化相通 mà nhiều quan điểm về lối sống của dân Đại Việt 大越 tương tự như bên Hoa Hạ 華夏. Quan niệm chi phối quan hệ xã hội, đạo đức lối sống đó do ảnh hưởng của Nho giáo (H: 儒教, 儒教, A: Confucianism, P: Confucianisme), với học thuyết của Khổng tử (孔夫子, 551 – 479 tCn). Theo thời gian, Nho giáo không những ảnh hưởng sâu rộng ở Trung Quốc mà còn ảnh hưởng ở nhiều nước trong khu vực, như: Nhật Bản, Triều Tiên, Singapor và Việt Nam,...
Một số tư tưởng triết học của Nho giáo ảnh hưởng trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam: tư tưởng Thiên mệnh 天命, về người quân tử 君子, về Tam cương - ngũ thường三綱 - 五常, về Tam tòng, tứ đức三從四德.
Nếu như Tam cương, Ngũ thường là bổn phận ngoài xã hội, và Bách hạnh là tiêu chuẩn đạo đức của nam giới thì Tam tòng, Tứ đức là chuẩn mực của nữ giới thời Nho giáo.
Đề cập sớm nhất về Tam tòng có thể là trong thiên “Giao đặc sinh” ở sách “Lễ Ký” 禮記/郊特牲. Trong thiên đó có đoạn: “婦人, 從人者也;幼從父兄,嫁從夫,夫死從子” (phụ nhân, tòng nhân giả dã: ấu tòng phụ huynh, giá tòng phu, phu tử tòng tử) tức là: “Phụ nữ là phải theo người, lúc nhỏ theo cha anh, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con”. Có tài liệu ghi “vị giá tòng phụ” 未嫁從父 (chưa lấy chồng thì theo cha), “ký giá tòng phu” 既嫁从夫 (đã xuất giá thì theo chồng). Tam tòng còn được đề cập trong sách Nghi lễ 儀禮註疏/卷三十, Tang phục, Tử Hạ truyện: “婦人有三從之義,無專用之道,故未嫁從父,既嫁從夫,夫死從子” (Phụ nhân hữu tam tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử) tức là: Phụ nữ có đạo tam tòng, không được phép tự chuyên, chưa lấy chồng thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con.
Tam tòng gắn bó hữu cơ với Tứ đức và cũng ở “Lễ ký”, trong thiên “Hôn nghĩa” 禮記/昏義 có chép: “是以古者婦人先嫁三月, 祖廟未毀, 教於公宮,祖廟既毀,教於宗室,教以婦德, 婦言, 婦容, 婦功” (thị dĩ cổ giả phụ nhân tiên giá tam nguyệt, tổ miếu vị hủy, giáo vu công cung, tổ miếu kí hủy,giáo vu tông thất, giáo dĩ phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công) tức là: “ngày xưa, phụ nữ trước khi lấy chồng ba tháng, nếu tổ miếu chưa hư hỏng, thì ra đó mà ở, nếu tổ miếu đã hư hỏng thì vào nhà của tông tộc ở. Dạy cho phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công”. Tứ đức 四德 còn được đề cập trong sách Chu lễ, Thiên quan trủng tể 周禮/天官冢宰: “九嬪掌婦學之法,以教九御:婦德, 婦言, 婦容, 婦功” (Cửu tần chưởng phụ học chi pháp, dĩ giáo cửu ngự: phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công) tức là: Quan cửu tần quản việc dạy học cho phụ nữ, dạy quan cửu ngự (chín ngự nữ dưới quyền mình) phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công.
2. Nội dung của Tam tòng Tứ đức
2.1. Tam tòng là ba điều mà người phụ nữ phải theo:
- Tại gia tòng phụ 在家從父 hay “tòng phụ mẫu”: người phụ nữ khi còn ở nhà phải nghe theo cha mẹ thì mới một cô gái ngoan ngoãn và thông minh. Đó chính là biểu hiện rõ của quan niệm “bách thiện hiếu vi tiên”, 百善孝爲先, đòi hỏi người con trước khi làm việc gì phải hỏi, xin phép cha mẹ bởi đó là những người có kinh nghiệm sống, thông hiểu lễ nghĩa, phép tắc, đạo đức.
Cũng vì thế việc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” thời xưa không có điều gì là xấu mà chỉ có lợi cho con cái, đặc biệt là nữ nhân.
- Xuất giá tòng phu 出嫁從夫: lúc lấy chồng phải nghe theo chồng, một lòng một dạ với chồng, giúp chồng làm thành sự nghiệp, quản gia, làm vẻ vang gia đình. Ở xã hội cũ, người chồng là người cáng đáng những việc bên ngoài, người vợ lo việc trong nhà nên cần “nam cương nữ nhu” 男僵女柔.
Mẫu người phụ nữ đức hạnh sẽ có được hậu phúc và được người đời tôn kính, ca ngợi là “vượng phu ích tử” 旺夫益子.
- Phu tử tòng tử 夫死從子: nếu chồng qua đời người vợ phải “ở vậy” chăm sóc nuôi dưỡng con trưởng thành và những việc trọng đại trong gia đình sẽ do con trai quyết định.
Quy định Tam tòng khiến người phụ nữ khi xuất giá lấy chồng thì “nhờ phúc nhà chồng”, dù tốt hay xấu thế nào cũng không được nương nhờ ai nữa. Đồng thời khi làm nghi lễ luôn đứng sau lưng cha, lấy chồng đứng sau lưng chồng, chồng chết đứng sau lưng con!
2.2. Tứ đức là 4 phẩm hạnh mà người phụ nữ phải có. Đó là:
- Công 婦功: Người xưa có câu: “vợ chồng có khác biệt”: “Nam chủ ngoại sự”, “Nữ chủ nội sự”’ Do “phân công lao động” nên người phụ nữ đảm nhiệm công việc quản gia, phụng dưỡng cha mẹ chồng, giáo dục con cái nên nữ công, gia chánh phải khéo léo. Tuy nhiên các nghề với phụ nữ ngày xưa chủ yếu chỉ là may, vá, thêu, dệt, bếp núc, buôn bán, với người phụ nữ giỏi thì có thêm cầm kỳ thi họa.
Trong xã hội ngày nay, người phụ nữ vừa giỏi việc gây dựng sự nghiệp, vừa chăm sóc gia đình cũng không phải là trái với tứ đức xưa. Nhưng bởi vì người phụ nữ là có tính âm, nhu mềm, nên mọi việc phải giữ chừng mực, xử lý tốt quan hệ giữa công việc gia đình và bên ngoài. Nếu quá thiên về công việc bên ngoài thì nhà sẽ thiếu đi trụ cột bên trong, hôn nhân sẽ đến muộn hoặc cuộc sống gia đình không hòa thuận.
- Dung 婦容: dáng người đàn bà phải hòa nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân, ăn mặc phải trang nhã, đứng đắn không làm mất đi đức hạnh của mình. Người phụ nữ, bên ngoài không nên ăn diện quá mức, bên trong phải chú trọng tu dưỡng đạo đức. Người xưa quan niệm rằng: phải dịu dàng, dáng vẻ đoan trang, nội tâm ôn hòa đó mới là người phụ nữ đẹp.
- Ngôn 婦言: Người phụ nữ phải giữ giọng nói luôn dịu dàng ôn hòa, nói lời hay ý đẹp, không nói bậy, hỗn hào, thô tục, khéo léo ứng đối, luôn suy xét xem lời nói có thỏa đáng không, có thích hợp không, không dùng lời ác làm tổn thương người khác, không cướp lời người khác. Khi nói chuyện với chồng, với con thì lời lẽ phải dịu dàng, khuyên can. Khi giao tiếp xã hội, lời nói phải rõ ràng, giữ lễ . Cho nên “ngôn” là yêu cầu người phụ nữ phải có trí tuệ và tu dưỡng tri thức mới có thể làm được.
- Hạnh 婦行 (có tài liệu ghi phụ Đức 婦德): Đây là tiêu chuẩn quan trọng, giáo dục con cái trở thành những người có đạo đức, giúp chồng đề cao phẩm đức của bản thân, khiến gia đình thịnh vượng. Người phụ nữ có phẩm đức phải thủ vững tiết tháo, giữ thân như ngọc, đối với hôn nhân gia đình phải một lòng một dạ, đối với cha mẹ chồng phải khiêm cung hiếu lễ.
Tư tưởng Nho giáo vốn “trọng Nam khinh Nữ” nên “Tài giai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Do vậy, ngoài Tam tòng còn có quy định khi đàn bà phạm phải bảy điều phải đuổi gọi là thất xuất 七出之条, tức bẩy cớ để bỏ vợ trong thời phong kiến, gồm: Không con无子, dâm淫佚, không thờ cha mẹ chồng不事舅姑, lắm điều口舌, trộm cắp盗窃, ghen tuông妒忌, bị bệnh khó chữa恶疾. Nhưng cũng khá nhân văn khi quy định 3 điều phụ nữ đã hoàn tất thì nhà chống không được đuổi gọi là “Tam bất khả xuất”三不可出. Đó là: từng để tang ba năm nhà chồng, trước nghèo sau giàu, ở nhà chồng thì đựợc mà về nhà mình thì không có chỗ nào nương tựa.
2.3. Quan niệm dân gian Việt:
Phải cho tứ đức vẹn tuyền
Công dung ngôn hạnh giữ gìn dám sai
*
- Thấy em anh cũng quý lòng
Hỏi em tứ đức, tam tòng là chi?
- Theo cha rồi lại theo chồng,
Khi chồng trăm tuổi, dốc lòng theo con.
Tam tòng đạo ấy vuông tròn,
Thì câu tứ đức ai còn nghĩ suy.
Công, dung, ngôn, hạnh nữ nhi,
Phận em là gái em thì phải theo.
*
-Thấy em là gái trâm anh,
Hỏi em hai chữ bố kinh thế nào ?
-Bố kinh thờ mẹ thờ cha,
Thờ chồng trọn đạo cùng là nuôi con
3. Tam tòng Tứ đức thời hiện đại:
Trong xã hội thời nay, mọi chuẩn mực đã đổi thay và còn đổi thay nữa. Địa vị người phụ nữ đã được nâng cao, họ không còn ru rú quanh quẩn chuyện bếp núc, sinh đẻ mà đã tham gia công tác xã hội, đi làm,…Do vậy nhiều tiêu chuẩn “cứng nhắc” của Nho giáo đã không còn phù hợp.
Nhưng những nét tiên tiến, nhân văn trong các chuẩn mực xưa vẫn còn những giá trị nhất định, tất nhiên ở một tầm cao mới. Ví như với các bé gái “tòng phụ mẫu” không có gì sai, nhất là với những gia đình mà cha mẹ “hiện đại” cùng con cháu, biết ứng xử phù hợp. Trong gia đình, nếu người vợ (dù có địa vị, thu nhập cao hơn) biết nhường nhịn, bao dung, biết khéo léo, …thì hôn nhân được bền vững, gia đình hòa thuận, phát triển. Sự “dân chủ quá trớn” đã phá vỡ nhiều “tổ ấm”!. Những gia đình vắng cha mà người mẹ trở thành điểm tựa tinh thần cho con, thì con sẽ chăm ngoan, phát triển tốt, gia đình hưng thịnh.
Tứ đức của phụ nữ hiện đại cũng thế, nó bảo đảm cho hình ảnh một phụ nữ Việt trong thời công nghệ số!
-Lương Đức Mến (BS từ nhiều nguồn TK), cuối tháng 11/2019-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!