[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


08 tháng 7 2019

Chú tôi: LƯƠNG ĐỨC DẬT, một đời gian nan

1.Cuộc đời :
Ông là Lương Đức Dật 德溢 () nhưng người quê tôi phát âm khó chuẩn nên thường gọi là “Rật” [1].  
Sinh năm 1925 (Ất Sửu, năm Khải Định thứ 10 hoặc Bảo Đại thứ nhất). Thủa nhỏ được mẹ chiều nên ham chơi hơn học. Các cụ kể rằng: bố và chú tôi cùng học Cụ Hội Khuê (bố cô Khuê, cô Huấn lên Lào Cai 1964). Có lần mải chơi chú không thuộc bài, cụ Hội Khuê bắt bố tôi nằm mà quất 3 roi vào mông vì tội không kèm em.
Nhưng bù lại chú rất khéo tay, nghề gì cũng tự mày mò, làm được. Vì vậy, sau này tôi đã viết đôi câu cúng chú là :
Tri phú khéo tay, tri biết bao ngh-Gây dng cơ đồ gi ch Đức, ch Nhân , tiếng còn thơm mãi;
Đất bi vượng khí, qua khp mi min-Cp rèn con cháu: phi vì Nước, vì Dân, danh vn lưu truyn.
Tuổi thanh niên ít tham gia công tác. Cuối cuộc kháng chiến từng bốc vác, chèo đò đưa cán bộ, du kích qua sông ở Bến Khuể. Câu chuyện thế này: Theo tinh thần Nghị quyết ngày 27/10/1948 của Liên tỉnh uỷ Hải-Kiến, ta quyết định diệt Đồn Khuể (án ngữ ngã tư song Văn Úc và đường từ Kiến An sang Tiên Lãng, biên chế 6 lính Pháp, 28 lính ngụy). Đồng thời quyết định sử dụng nhân mối trong hàng ngũ địch kết hợp với lực lượng tiến công từ ngoài vào. Kết quả đồn này bị diệt vào đêm 25/9/1949. Trong trận này có công lao đóng góp của bố (người cùng cán bộ xã thảo và đưa thư vào cho nhân mối) và chú thím tôi (khi ấy chèo đò trên sông Úc)[2].
Để ghi nhớ trận binh biến đó và phù hợp với hoàn cảnh mới, 2 xã lập ra từ 1946 là: Cảnh Hưng (gồm: Mông Tràng Hạ, Phương Lạp, Tôn Lộc và Cốc Tràng)  và Kim Lĩnh Thượng (gồm: Kim Côn, Côn Lĩnh, Mông Tràng Thượng) nhập lại mang tên mới: Chiến Thắng từ 05/10/1950.
Sau hoà bình tích cực tham gia các phong trào văn nghệ ở thôn. Năm 1962, 1963 làm thợ mộc đi xây dựng khu Gang thép Thái Nguyên.
Khi ở quê vì đất chật nên 2 anh em chung sân, chung bếp. Anh (Thân) thiên về làm “thầy” (dạy học, văn nghệ) thì em lại chăm chú học làm “thợ”. Hết làm mộc lại tự học làm thợ rèn, thợ cắt tóc, thợ may,…! Quanh năm vất vả xoay đủ nghề nhưng không khá giả lên được.
Tháng 2/1964 đi khai hoang ở An Phong, Phong Niên, Bảo Thắng, Lào Cai cùng đợt với gia đình nhà tôi.
Nhà chú gồm 8 khẩu: 2 vợ chồng và 6 con (An, Dưỡng, Sinh, Tràng, Quang, Vinh). Lúc đầu ở chung dẫy 3 gia đình. Khi L.Đ.Duẩn chuyển Trì Quang thì sang mảnh đất của ông Duẩn ở.
Một tay ông dựng bao ngôi nhà, đóng cối xay, cối giã để cho xóm làng dùng. Dụng cụ khai phá buổi ban đầu khi mà chợ búa xa, ít đồ đều do ông sửa chữa, cải tạo. Ông còn là người tự nguyện tổ nấu xôi, tổ chức cho con cháu trong An Phong vui tết Trung thu trong thời khốn khó. Trong hoàn cảnh cả vùng chưa có ai thực hiện nghi thức Nhạc hiếu mỗi khi có đám, chú tôi còn tự làm và tập thổi kèn. Chính đôi kèn ông làm mới sử dụng được vài lần nhượng cho ông  Đờn bên Sơn Hải (qua chú Bùi Văn Đồng) là “nhạc cụ” khơi mào cho các Đoàn Nhạc hiếu xã Sơn Hải phát triển mạnh sau này.
Chú mất ngày 07-6 năm Đinh Tị (Sáng Thứ Sáu, ngày 22/7/1977) vì bệnh Đái tháo đường[3] điều trị không hiệu quả. Khi đó tôi đang nghỉ hè năm thứ 3 ĐHQY.
Mộ phần đặt tại khu gốc gạo Km 36 Phong Niên.
2. Phu nhân:
Thím tôi tên là Lưu Thị Bính, sinh năm Mậu Thìn-1928, quê thôn Hạ Lũng[4], An Hải, Hải Phòng. Bà nhanh nhẹ, hoạt bát, hiểu việc đời. Hai người cưới nhau hồi đầu kháng chiến. Chuyện là: Hồi đầu kháng chiến, thím sơ tán về làng Hương buôn bán, trọ ở nhà chị gái bác Ruẩn. Bà này muốn làm mối thím cho em trai mình là Trương Tiếp (anh bác Lương Đức Ruẩn).Trong khi đó bên ngành nhà tôi lại muốn cưới cho chú tôi (như Bà tôi bảo để chú khỏi “nghịch” nhiều). Vì bố tôi và các anh đều tham gia công tác xã, thôn nên đã ra qui định: dân nơi khác đến (trong đó có thím Bính) tối tối phải ra đình ngủ tập trung. Nhờ chú tôi là du kích “bảo lãnh” thím được “chiếu cố” và sau đó đã đồng ý lấy chú. Bà tôi làm mấy mâm mời đội du kích và thành đám cưới. Đổi lại anh hạ tôi là Tiếp phải đổi tên thành Thiếp (theo ý gia đình bác Ruẩn). Bác Trương Tiếp sau đó mất, chưa con. Còn anh Thiếp năm 1964 cũng lên Lào Cai ở Thái Vô (Km45), Xuân Quang , sau chuyển xuống thôn Nậm Dù (Km 49)[5] xã  Xuân Quang, huyện Bảo Thắng.
Khi lên Lào Cai  từng làm đội trưởng ĐSX, đại biểu HĐND xã. Năm 1974 đã đưa em gái (Tích-Chập), em trai (Hưng-Túp) và một người bà con (Chỉ-Hội) lên Lào Cai cùng ở trong An Phong. Khi thôi công tác, buôn hàng vải hỗ trợ con cái.
Năm 1988 ốm do Cao huyết áp. Mất  lúc 3 giờ sáng Thứ Tư ngày 15/6 (02-5 Mậu Thân)[6]. Ngày đó, tôi vẫn còn ở Yên Bái, nhận tin Thím mệt, tôi và Vinh (con gái út thím) lên từ hôm trước nhưng lúc đó thím cũng không còn nói được gì. Hôm thím mất, tôi có viết đôi câu đối viết trên bc trướng:
Thay chng: nuôi dy con,  tròn đạo Hiếu-Rng danh dâu Tho;
Thương con: chăm sóc cháu,  vn nghĩa Tình-xng tiếng m Hin.
 Mộ phần đặt cạnh mộ chồng.
3. Các con:
Ông bà sinh nhiều bận, nuôi đến trưởng thành có 6 :
3.1- Lương Đức An (1949-1967): Liệt sĩ CMCN.
3.2- Lương Thị Dưỡng (1952-2004): chồng họ Phạm, con cháu nay sinh sống tại Phong Niên, Bảo Thắng.
3.3- Lương Thị Sinh (1955-1994) chồng họ Hoàng, con cháu nay sinh sống tại Bắc Hà, Lào Cai.
3.4- Lương Đức Tràng: vợ họ Ngô, gia đình hiện sinh sống tại An Phong, Phong Niên.
3.5- Lương Đức Quang: vợ họ Lữ, gia đình nay sinh sống tại An Phong, Phong Niên.
3.6- Lương Thị Vinh: chồng họ Lê, gia đình nay sinh sống tại Cầu Giấy, Hà Nội.
- Lương Đức Mến, 08/7/2019, ngày Tiên thường của Hiển Thúc phụ khảo-



[1] Khi tôi lớn thấy mọi người đều gọi chú là “Rật”, lý lịch anh em tôi đều viết thế. Nhưng khi soạn Gia phả tôi thấy chữ “Rật” không có nghĩa gì, tôi nghĩ do viết ngọng mà ra nên tôi ghi thành “Dật”:  với nghĩa  “nước dầy tràn ra ngoài” hay với nghĩa “Yên vui”, “Khéo léo”.
Như vậy tên của cô, bố và chú tôi sẽ là:  Di , Thị , Thân , Dật với nghĩa: Vui vẻ, họp chợ, thương yêu , yên vui.
[2] Tiếc rằng, Lịch sử Đảng bộ xã Chiến Thắng viết năm 2000 không chép rõ sự kiện này
[3] Út Luận có kể chuyện “Bà cho Chú ăn vụng” như sau: Chú bị bệnh tiểu đường, phải kiêng đồ ngọt, nhưng lại rất thèm. Khi Chú sang chơi, Bà lấy hộp sữa Ông Thọ để dành từ lâu, đục ra, bảo Chú "ai đằng nào chả chết, ăn đi, sống có đây mà thèm thuồng không dám ăn còn khổ hơn".
[4] Là một làng xã ven đô thuộc phường  Đằng Hải, quận Hải An từ xưa vốn nổi tiếng về trồng cây trái, hoa tươi, quả ngọt cung cấp cho thị trường. Nơi đây có Miếu Hạ Lũng là một trong hệ thống các công trình kiến trúc cổ mà nhân dân dựng nên để ghi nhớ công lao của Ngô Vương Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938.
[5] Anh khá lắm vợ, đông con, về già vất vả. Mất 10 giờ ngày 15/7/2003 (tức là giờ Kỉ Tỵ, ngày 16 Kỷ Sửu, tháng 6 Kỷ Mùi năm Quý Mùi) thọ 81 tuổi.
[6] Thực ra bà ốm đã lâu, ở nhà Quang ngoài km 36 đường QL7, giấu con cái không chịu uống thuốc. Khi mệt nặng mới đưa vào nhà Tràng trong thôn. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!