Kính cáo Chư Phật, chư vị
Tôn thần,
Kính cáo Hoàng Thiên Hậu Thổ,
Tiền chủ, Hậu chủ!
Kính cáo Tổ tiên, Hương linh
Hiển khảo cùng các bậc phụ thờ!
HÔM NAY:
Ngày mồng Bẩy tháng Một năm
Giáp Ngọ khí sáng, trời xanh; Đất An Phong thuộc xã Phong Niên rộn vui xóm ngõ.
Con cháu cụ Trinh gốc Hải
Phòng phương trưởng tự nơi này, Từ mọi chốn hướng về đất cũ.
Ngắm đồi xanh, tưởng lại cội
xưa; Nhìn suối trong, nghĩ về nguồn cũ.
NHỚ THỦY TỔ XƯA:
Nhà 2 con gặp cảnh điêu
linh; Nước “lưỡng chế”[3]
cơ đồ nghiêng ngửa.
Xứ Đông lụt lội, bao cảnh
tang thương; Làng xóm xác xơ, đời càng thêm khổ.
Đành một gánh từ bỏ quê
hương; Dắt vợ con tìm nơi dễ thở[4].
Thấy bên tả sông Văn nước
ngập, muỗi đầy, người vẫn còn thưa; Bèn sang đó đắp bờ thau chua, rửa mặn, phát
hoang, cầy vỡ.
Công sức mồ hôi đã thấu đến
trời, Lại được họ Nguyễn, họ Mai[5]
giang tay giúp đỡ.
Xây thành xóm, thành ruộng
thành đồng; Dựng nên nhà, nên chồng, nên vợ.
Hoài cố hương, trở lại Đăng
Lai[6];
Tiếp căn cơ và hương khói Tổ.
Lưu cháu con xây dựng Hạ
Hương; Khởi tổ tiên họ Lương tân thổ.
ĐỨC TỔ
TA:
Cha vốn gốc Phương Lai; Mẹ Quan Bồ[7]
cùng lộ.
Tuổi thơ ấu, vốn chẳng biết nhau; Thời khôn lớn nên duyên chồng vợ.
Nối mẹ cha xây dựng Hạ Hương[8];
Dồn công sức, khơi mương, vượt thổ.
Bồi lấp bãi lầy; Dọn quang lăn, cỏ.
Đây Cốc Tràng, Tôn Lĩnh, Kim Côn khi
sương chiều, khi nắng sớm, nghĩa hương thôn ấm lạnh đỡ đần; Kìa Phương Lạp,
Mông Tràng, Tôn Lộc[9],
lúc nắng Hạ, lúc mưa Đông, tình xóm làng răng môi gắn bó.
Việc cấy cày, đã hết dạ chăm lo; Đường học vấn, còn dày công dạy dỗ[10].
Thuật xử thế ngoài êm trong ấm, thầy hay bạn tốt, chọn nhân nghĩa phương
châm; Việc tề gia trên thuận dưới hòa, con thảo cha hiền, dùng hiếu từ quy củ.
Công ơn mở đất, ai cũng kính yêu; Tâm huyết xây quê, đời càng thấy rõ.
Theo đà tiến triển, cùng dân cũ tô điểm quê cha; Giữ nếp cổ truyền, nhớ cội
nguồn dựng xây đất tổ.
THẾ RỒI
:
Đang lo cấy cày, gặp buổi nhiễu nhương; Lại thương nỗi nhân dân đói khổ.
Vâng mệnh trên, Văn Úc xuôi dòng; Việc điếu phạt phò Vua dẹp bỏ.
Rằm tháng Giêng phỉ bình nhưng Cụ bị trận vong; Nhớ lời dặn, cháu con chọn làm
ngày giỗ Tổ.
Sống nhiệt thành, tử trận linh thiêng; Với hậu thế Người luôn phù hộ[11].
HẬU DUỆ
TRUYỀN :
Noi gương Tổ: ngày thất bát hai vợ chồng- Bên nồi,
bên con, thau chua rửa mặn lập ra làng xóm, gây nghiệp kiệm cần; Học tiền nhân:
Buổi khai hoang vài chi phái- Vượt núi, băng rừng, san đồi, vỡ ruộng dựng nên
thôn bản, xây dòng tiến bộ[12].
Lời xưa, ý nay bồi đắp: đạo Thánh hiền cháu con ghi nhớ noi theo; Đất cũ,
làng mới xum vầy: tình cốt nhục khắp nơi thân thương gắn bó.
Đức khai cơ cao tựa núi Voi; Ân dưỡng dục dài hơn sông Úc.
Mênh mông bể cả, tổ ấm tài bồi; Thăm thẳm non cao, tôn công tế độ.
HIỂN
KHẢO TA:
Quý Hợi ra đời khi ách đô hộ phủ khắp xóm làng; Sớm trải khó khăn bởi
cảnh nhà khốn khó.
Cha hết ra mỏ lại xuống tầu tìm kế tha phương; Mẹ vừa xáo xén kiêm
gánh gồng suốt ngày vất vả.
Thủa ấu thơ lúc cắt cỏ chăn trâu, lúc đi ở trông em; Niềm vui, sự học
khi trăng mờ, trăng tỏ.
Buổi cờ sao, tham gia chẳng quản ngại khó khăn; Ngày kháng chiến, hoạt
động đâu kể gì sương gió.
Đón Hoà bình mở lớp Bình dân; Vui Hợp tác chỉnh trang xóm ngõ.
Hôn phối tăng tình thân Phương Lạp - Cốc Tràng; 10 bận gieo được gặt 7
lần biết bao gian khó.
Nhưng ở quê đất chật người đông, phải đưa gia
đình rời bỏ quê hương, lên chốn biên cương, thực thi kế hoạch
khai hoang rừng rú.
Lại những ngày tay trắng khai cơ chặt cây mở lối, san núi, be bờ, dạ
luôn hướng tới tương lai; Qua bao
bận chí bền vượt khó, chiếu đất màn trời, vỡ ruộng, dựng nhà lòng vẫn nhớ về
đất Tổ.
Nơi quê mới, mấy nhà chung mái ấm, lo dạy trẻ, chăm già; Chốn biên thùy, 12 hộ chí gan
bền, quyết gắng công vượt khó.
Một thời khai hoang, mặc muỗi độc rừng thiêng; Mấy bận xây nền, dù đói ăn vất vả.
Với bà con lo cái ăn, cái mặc khởi nghiệp vươn mình; Cùng cháu trai mở lớp Vỡ lòng ra công
dạy dỗ.
RỒI TỪ ĐÓ:
Song thân tần tảo sớm
khuya; Đàn con học hành gắng cố.
An Phong ngày một chuyển
mình; Gia đình qua thời khốn khó.
Em mất, cháu hi sinh; Chốn
dương trần mình người chống đỡ.
NHƯNG BỖNG ĐÂU:
Lửa chiến tranh tái diễn nơi đây; Nhà cháy, vườn hoang lại thêm tân
khổ.
Con: đứa đi học, đứa tòng quân, đứa ở nhà vẫn tuổi dại thơ; Hai tay
trắng lập lại cơ đồ mơ ngày hoan lộ.
THẾ MỚI HAY:
Để có ngày phú quý, bao công sức đổ xuống đất này; Vì sự nghiệp mai
ngày, biết bao lần vượt khó.
An Phong đổi mới nhờ địa lợi mà bát ngát màu xanh; Nội lực phát huy
lấy nhân hoà để vượt qua gian khổ.
ĐẾN HÔM
NAY :
7 trái xưa nay thành 7 gia đình dẫu chưa giầu cũng không nỗi bần hàn; 24 cháu
đứa sĩ quan, đứa kĩ sư, đứa giáo viên, đứa đang học xin kính cáo tiền nhân được
rõ.
Tuổi 92 mẫu thân con vẫn khoẻ mạnh, tinh anh; Chồi
lan quế 10 chắt cụ gái trai đầy đủ.
Gốc Tử phần tu dựng Từ đường; Nơi Nghĩa địa đẹp mồ tiên tổ.
ĐÚNG LÀ:
Tu nhân, tích đức, Phật đền cho; Khổ
tứ, lao tâm, Trời chẳng phụ.
Trải lúc cơ trời biến cải, dù buổi thái bình hay cơn binh lửa, sức âm phò
quả đã vô cùng; Qua tuần cuộc thế đổi thay, dù nơi đất khách hoặc chốn quê nhà,
ơn mặc trợ mỗi ngày mỗi tỏ.
Đất lành người đảm, đời này sang đời nọ, thụ hưởng hồng ân; Nhân tốt quả xinh, lớp trước tiếp lớp sau,
đượm nhuần phúc thọ.
Dẫu đã hướng đi lên; Còn muôn
điều thách đố.
Khắp tứ phương: xuôi, ngược,
thị, thôn; Dù bách nghệ : sĩ, nông, công, trí.
Đường phấn đấu chí quyết ắt thành;
Nghiệp khoa cử đã thi là đỗ.
BỞI THẾ CHÁU CON NAY:
Tu sửa Gia đường; Chỉnh trang Phần mộ.
Mừng thay Khánh lễ Lạc thành; Vui
bấy sự hoàn tu bổ!
Nhớ người góp công sửa chỗ đi về; Ghi người công đức xây nơi thờ tự.
Nhờ ơn Tiên tổ, mách thầy mách thợ, xây cất chu toàn; Với sức cháu con, góp của góp công, khuôn
viên đầy đủ.
Mộ phần tu chỉnh, nghìn thu cựu tích tô bồi; Tự sở phong quang, năm Phái cơ
ngơi minh lộ.
Gia sử chỉnh tu; Phả đồ cập độ.
Nghe Chúc văn, lưu công đức muôn đời; Dõi sơ đồ,
rõ quế hòe trăm nụ.
Sưu tầm tài liệu, thi văn tuyển trạch, phụ lục dồi dào; Bổ túc di dung, thế
thứ phân minh, Phái Chi đầy đủ.
TRONG BUỔI HOÀN CÔNG:
Cúi nguyện
nghĩ: Vầng nhật nguyệt sáng rạng mười phương; Đức Tổ tông lưu danh muôn
thuở.
Ngẩng cao trông: Phúc ấm nối
đời, “Tế thần, thần tại'” giáng nơi Từ Đường; Cháu con thờ phụng, “Xuân kị Thu
thường” đều kỳ cúng giỗ.
Thắp nén hương nghi ngút tại Gia đường, Đặt cành hoa ngạt ngào dâng lên Tổ.
Tấm lòng tôn kính, lễ bạc tiến nghinh; Văn tế nôm na, tấc thành biểu lộ.
Tưởng nhớ ân sâu Đấng Anh Linh, Tâm nặng nghĩa dầy Tiên Liệt Tổ.
Nguyện Hiếu, Trung, vì Nước
vì Dân, Tròn Tình, Nghĩa với Đời, với Họ.
Mang Chính Tâm dạy cho con cháu, lấy Nhân Tín làm điều xử
sự.
Người ở quê giữ phần hương khói chăm sóc Gia đường, tạo tôn phần mộ.
Kẻ đi xa khơi dòng ôn cố, dốc tâm dựng cơ đồ, rạng danh đất cũ.
CÚI XIN:
Tổ tiên và Hiển khảo từ cõi
linh thiêng, Ân Đức dẫn đường giúp con cháu ngày thêm tiến bộ.
Để mọi người đạt thành may mắn; Cho toàn gia Khang Ninh Phúc Thọ.
Làng xóm mạnh
giầu, Quốc cường, dân phú.
Khắp ngược xuôi, Hạnh phúc
Yên Vui, dòng Lương tộc mãi mãi sáng danh; Đều trai gái, công đức ngàn trùng,
giữ nếp gia tiên, khói hương muôn thuở.
Lòng thành kính bái, xin
được chứng minh; Ước vọng dâng lên, kính xin tế độ.
-Cẩn cáo-
Lương
Đức Mến (Đời thứ Bẩy) phụng
soạn giữa Đông Giáp Ngọ 遞七代梁德悗 奉纂.
[1]
Tiên Lãng xưa, vào thời Lê Thánh Tông là huyện Tân Minh 新明縣, năm 1600 do kiêng húy Vua Lê
Kính Tông hiệu Duy Tân nên Tân Minh đổi thành Tiên Minh 先明 sau đó do phạm húy Vua Hàm Nghi (hiệu
Ứng Minh) nên năm 1884 đổi thành Tiên Lãng 先朗.
[2]
Bộ Mộc 木 ghép
với chữ Thủy 水
viết dưới dạng bộ 氵thành
ra chữ Lương 梁, chỉ tên dòng họ.
[3]
Vua Lê-chúa Trịnh”.
[4]
Giữa thế kỷ XVIII, gặp cảnh “Gia bần niên cơ” Thượng tổ “bên nồi bên
con” từ Tiên Minh sang đất Cao Mật khai cơ, lập nghiệp.
[5]
Những họ có trước ở Cao Mật.
[6] Đăng Lai 登來 (sau cải là Phương Lai 芳來) thuộc tổng Kênh Thanh (nay là xã Cấp Tiến huyện Tiên Lãng).
[7] Quan Bồ 關蒲 thuộc tổng Kênh Thanh.
[8]
Làng Hạ là tên Nôm của Mông Tràng Hạ蒙場下, làng Hương là tên Nôm của
Phương Lạp 方粒 thuộc
tổng Cao Mật高密總,
nơi Thượng tổ dừng chân ban đầu.
[9] Các xã thuộc tổng Cao Mật tính từ thượng nguồn xuống là: Kim Côn
今崑, Côn Lĩnh 崑嶺, Mông Tràng Thượng 蒙場上, Mông Tràng Hạ 蒙場下, Phương Lạp方粒, Cốc Tràng 谷場, thôn Tôn Lộc 尊祿 và Cao Mật 高密.
[10] Con
cháu cụ Đồ Thiệu 第四枝宗 梁公劭
[11] Xem
bài “Hạ Thập kỳ” và lịch sử ngày giỗ Tổ.
[12] Chỉ
các chi phái họ Lương gốc xã Chiến Thắng, hyện An Lão, đi xây dựng quê hương mới ở Lào Cai, Điện
Biên, Đắc Lắc,…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!