Câu chúc Năm mới “TAM DƯƠNG KHAI THÁI” vốn từ
thành ngữ: “三陽開泰”
(“Tam dương khai thái”), “三陽交泰”
(“Tam dương giao thái”), “三陽啟泰”
(“Tam dương khải thái”) và nó mang ý nghĩa Dịch lý 理易學, chơi chữ lý
thú.
Từ xưa, các nhà Thiên văn Đông phương đã nhận ra quy
luật “Sóc-Vọng” 朔望: không Trăng-Trăng
khuyết-Trăng tròn-Trăng khuyết-không Trăng liên tiếp nhau mà sau này khi chế ra
lịch âm, người ta gọi đó là một tháng 月. Trong phép tính lịch 曆法 theo Can Chi 干支紀月法 của Âm lịch (陰曆, lunar calendar/ Le calendrier lunaire) thì 12 tháng gọi tên theo 12 địa chi 地支 sẽ có tên
tương ứng là: Tý 子, Sửu 丑, Dần 寅, Mão 卯, Thìn 辰, Tỵ 巳, Ngọ 午, Mùi 未, Thân 申, Dậu 酉, Tuất 戌, Hợi 亥. Trong 3 tháng đầu chi đáng chú ý 2 tháng thuộc năm cũ là tháng thứ Mười một (chính xác phải gọi là tháng Một, chứ không
phải như hiện nay đa phần gọi nhầm là tháng 11) là tháng Tý 子, kế đến tháng Chạp là tháng Sửu 丑 và tháng thứ ba bắt đầu vào
năm mới là tháng Giêng là
tháng Dần 寅 mà đêm trăng tròn giữa
tháng rất quan trọng. Cụ thể:
Vọng Nhật thứ Nhất 第一望日 nằm trong tháng Tý (tháng Một 冬月) với đêm Rằm là Nhất Dương 一陽 ứng với quẻ Lâm 臨, nghĩa là “Ở trên soi
xuống”, như “giám lâm” 監臨 là soi xét, “đăng lâm” 登臨 là ngắm nghía.
Quẻ này trong
Kinh dịch 易經
gọi là “Địa Trạch Lâm” có đồ hình là ||::::, là quẻ thứ 19;
được kết hợp bởi Nội quái là ☱ (||:) Đoài 兌 hay Đầm 澤 và Ngoại quái là ☷
(:::) 坤 Khôn 坤 hay Đất 地. Thoán từ: 臨: 元亨, 利貞.至于八月有凶 (Lâm: Nguyên hanh, lợi trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung). Tức là (dương)
lớn lên và tới, rất hanh thông, chính đính thì lợi; Đến tháng 8 (hoặc tám tháng nữa) sẽ xấu.
Vọng Nhật thứ Hai 第二望日 ở tháng
Sửu (tháng Chạp 臘月) mà đêm Rằm là Nhị Dương 二陽, ứng với quẻ Phục 復,
nghĩa là: Báo đáp, như “phục thư” 復書 tức viết thư trả lời, “phục
cừu” 復仇 là báo thù. Đây là quẻ Địa Lôi Phục có đồ
hình |::::: còn gọi là quẻ thứ 24 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội
quái là ☳ (|::) Chấn 震 tức Sấm 雷 và Ngoại quái là ☷ (::: ) Khôn 坤
hay Đất 地. Thoán từ : 復: 亨, 出入无疾, 朋來无咎; 反復其道, 七日來復, 利有攸往 (Phục:
Hanh, Xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu; Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục,
lợi hữu du vãng). Nghĩa là: Trở lại: Hanh thông, Ra vào không gặp tai nạn,
bạn bè sẽ lần lượt tới, không lầm lỗi nữa; Vận trời phản phục (tráo đi trở lại), cứ bảy ngày thì trở
lại, hành động việc gì cũng có lợi.
Vọng Nhật thứ Ba 第三望日 trong
tháng Giêng 正月 với Rằm gọi là Tam Dương 三陽, khởi
ngày đêm của một năm mới, ứng với quẻ Thái 泰, nghĩa là: Bình yên, to
lớn, rộng rãi; Thời vận tốt tột bậc. Quẻ này gọi là Địa Thiên Thái, là quẻ thứ
11 trong Kinh có đồ hình |||:::, là quẻ số 11 trong Kinh Dịch. Nó được kết hợp
bởi Nội quái là ☰ Càn 乾 hay Trời 天 gồm 3 hào Dương (|||) và
Ngoại quái là ☷ Khôn 坤
hay Đất 地 gồm 3 hào âm (:::). Thoán từ: 泰: 小往大來, 吉, 亨 (Thái: Tiểu vãn đại lai, cát, hanh) (泰: 小往大來, 吉, 亨); nghĩa là: Quẻ Thái tượng trưng cho sự “hanh thông
thái hòa”, cái mềm yếu nhỏ bé (nhu tiểu)
đi ra, cái to lớn cứng mạnh (cương đại)
đi vào, được tốt lành, hanh thông.
Như thế trong quẻ Thái gồm 3 hào Dương làm chủ chốt
bên trong thuộc quẻ Càn ở bên dưới, 3 Âm phụ là quẻ Khôn bật bên ngoài lên trên;
cái gì quý được ở bên trong, cái gì tiện xếp ra bên ngoài để bao bọc, hỗ trợ.
Vả lại, theo triết học cổ truyền của phương Đông thì trời đất có Nguyên khí mà
nhờ nó mà vạn vật sinh thành, phát triển. Do vậy ở thời điểm quẻ Thái: Dương
khí (Trời) thượng thăng, Âm khí (Đất) hạ giáng, có sự trên dưới tương
thông, âm dương ứng hợp. Điều đó làm cho khí trười và khí đất tiếp sức, cộng
tác với nhau, tạo ra hanh thông thuận lợi của sự vật giúp vạn vật làm nên công
trạng lớn.
Trong câu “Tam
dương khai thái” cũng gọi “Tam dương giao thái” hay “Tam
dương khải thái” thì
“Tam dương” 三陽 chỉ hình của quẻ (3 hào dương |||) còn “thái” 泰 chỉ
tên quẻ mà quẻ này là vạn sự hanh thông, rộng rãi, khoan yên nên người xưa dùng
“Tam dương khai thái” làm lời chúc đầu Xuân.
Nhưng vì “羊”chỉ “con dê” “陽” chỉ “phần
dương, khí dương”, trái lại với chữ “陰” chỉ phần âm đều
được đọc là “dương” nên vào những năm Mùi (cầm
tinh con Dê) người ta viết “三陽開泰”thành
“三羊開泰”
và thành câu chúc đầu năm. Đây chỉ là sự “chơi chữ” (đồng âm “dương”) chứ không phải “3 con Dê hợp lại càng “Dê” tăng sự
sinh sôi” như có người đã hiểu!.
Dù hiểu cách chi thì “Xuân Mùi đương đến: Muôn loài
bừng tỉnh, vạn vật hồi xuân, cây cối nẩy mầm, quả hạt nẩy mộng, già sinh hy
vọng, trẻ nẩy tình yêu, thương nhân nẩy lộc, quan chức thêm quyền, nhà thêm
xuất đinh...”
Khai bút đầu năm 2015.
- Lương Đức Mến-
Học giả An Chi trong https://www.facebook.com/notes/an-chi/tam-d%C6%B0%C6%A1ng-khai-th%C3%A1i-n%C4%83ng-l%C6%B0%E1%BB%A3ng-m%E1%BB%9Bi-s%E1%BB%91-391-16-1-2015/828110553894782?comment_id=828177173888120&ref=notif¬if_t=note_reply đã cung cấp:
Trả lờiXóaTrước thực tế này, nghĩa là trước sự đã rồi, ông Tô Bồi Thành [蘇培成], giáo sư hệ Trung văn Đại học Bắc Kinh đã làm một việc thực chất là có tính chiết trung. Ông cũng giải thích rằng thành ngữ “tam dương khai thái” vốn xuất xứ từ quẻ Thái trong Kinh Dịch nhưng chữ “dương” trong “âm dương” đã bị chữ “dương” là dê thay thế. Ông dẫn giải rằng thời xưa chữ “dương” [羊] và chữ “tường” [祥] trong “cát tường” thông nhau. Bằng chứng là trên nhiều cổ vật thì “cát tường” [吉祥] đươc viết thành “cát dương” [吉羊]. Đồng thời, thời xưa thì bên Tàu vẫn xem dê là linh thú và điềm lành. Vì vậy nên “tam dương khai thái” [三陽開泰] với chữ “dương” [陽] trong “âm dương” hay “tam dương khai thái” [三羊開泰] với chữ “dương” [羊] là dê đều mang ý nghĩa cát tường.