Tôi lớn nhất nhà nên trên tôi không có anh hay chị gái ruột. Do vậy, con gái cô ruột và cô họ tôi (quê tôi, chị gái bố cũng gọi là “cô”) thành chị gái gần của tôi và đều ở An Tiến thuộc Sơn Hải, Bảo Thắng. Do vậy không mấy Tết mà tôi không qua nơi đây.
20 giờ tối ngày 09/01/2023 (tức 18 tháng Chạp năm Nhâm Dần) chị con bà cô (bác) ruột tôi là Nguyễn Thị Phường ra đi và nay (03/7/2023) lại một chị nữa, có mẹ người họ Lương gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng ra đi cũng tại Sơn Hải.
Tôi với chị này, đều thuộc đời thứ Bẩy và có chung Tổ đời thứ Ba họ Lương gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng là cụ Lương Đức Hanh 梁德亨.
Chị thuộc dòng cụ Chinh, con thứ Ba của Thế Tổ Lương Đức Hanh với bà Cả và thường gọi là Cụ giáo Chinh (征, vì cụ dạy học hay “chinh lớn) để phân biệt với cụ Tổ dòng nhà tôi là cụ Trinh (禎, thường gọi là “trinh bé” con bà Hai). Đất cạnh đình Hương (đã dỡ bỏ từ năm 1966), sau này L.Đ. Thông (cháu gọi bằng ông bác) ở.
Cụ Chinh sinh 2 Nam là Trược (vô tự) và Khuông (cũng khiếm tự). Do vậy từ đời 5 trở đi dòng này dứt hẳn. Đúng ra ban đầu, bà Nội tôi đã cho chú ruột tôi là Dật sang làm con theo nguyên tắc “Chiêu mục” và sẽ ăn thừa tự của cụ nhưng vì lời ra tiếng vào gì đó chuỷện đất cát nên bà lại cho chú về. Theo lệ cổ, bố tôi là “Trưởng tràng” lẽ ra chăm lo hương khói thầy khi thầy không con trai nhưng vì gia cảnh, ông nội tôi lại bỏ quê đi sớm, rồi các gia đình lên Lào Cai vào năm 1962, 1964 và do hoàn cảnh kinh tế eo hẹp thời đó lại cách trở rừng, sông,...nên mọi người ít qua lại và vì vậy việc “hương khói” đó không thực hiện được.
Sau này, qua tìm hiểu tôi được biết: hai con gái cụ Khuông, lên khai hoang tại Lào Cai là:
- L.T. Khuê lấy Nguyễn Văn Khánh ở Lang Thượng, Mĩ Đức, An Lão. Năm 1962 lên Sơn Hải, Bảo Thắng. Ông này cũng khá giỏi chữ Nho nên có chuyện những năm CNQP TQ (thực ra là PLA) sang làm đường, đóng ở Bảo Thắng ông từng “bút đàm” với họ. Bác ốm mất năm 198?. Hai bác sinh 1 Nam, 2 Nữ đều lên Sơn Hải, Bảo Thắng từ 1962. Do vậy năm học lớp 2 (1964-1965) khi học tại Sơn Hải tôi có biết và chơi với các anh chị đó nhưng đâu có gọi bằng “anh chị”.
Sau này, khi tái lập tỉnh (1991), lên Lào Cai tôi có qua lại vào nhà anh N.V. Tích khi đó còn ở Phố Lu có vợ và 4 con, làm thợ mộc. Từ 2000 anh chị chuyển sang Sơn Hải, sinh sống trên nền nhà anh Nghía, lập Đoàn Nhạc Hiếu Minh Tích, hoạt động có uy tín trong huyện Bảo Thắng. Các con hầu như nay đều theo nghề của anh.
Còn chị N.T. Phương (Ích) và N.T.Hương (Mích) là GV nghỉ hưu đều không lấy chồng lúc đầu ở Xuân Quang, sau cũng sang Sơn Hải, ở ngay lối vào nhà em trai là anh NV Tích. Riêng chị Phương thời trẻ hát khá hay. Chị từng dạy học ở Sơn Hà, Bảo Nhai, Xuân Quang có người “để ý” nhưng không “nên duyên”. Năm 2022-2023 chị ốm đau suốt và đã ra đi hồi 10 giờ sáng 03/7/2023 tức thứ Hai ngày 16/5/Quý Mão.
- L.T. Huấn lấy Đặng Văn Thoả cùng làng Phương Hạ là cháu gọi bà Nội tôi là Cô ruột, là em ruột bác Đặng Văn NHỡ (có con là Đặng Phú Sơn còn ở cạnh nhà mẹ đẻ tôi ở An Phong, An Hồ, Phong Niên). L.T.Huấn là người được học nhiều nhất trong số con gái Lương tộc (ông và bố đều làm thày đồ) tháng 2/1964 lên khai hoang ở An Phong, cuối năm đó chuyển sang Trì Quang. Sau mấy năm bị bệnh thần kinh (Kị 7 tháng 11). Hai vợ chồng đều mất ở Trì Quang. Con trai (Tăng, Cường, Còn) lấy vợ, lập nghiệp ở Làng Mạ, Trì Quang, lối vào rất khó khăn, con cái học hành ít. Con gái (Minh, Mãn) lấy chồng bên Sơn Hải. Tháng 3/2001 Cường cũng chuyển sang đó còn Tăng đã về Kiến An (Hải Phòng).
Quanh chuyện về hậu duệ của cụ Tú 梁公秀, con thứ Ba của Tổ (đời thứ Hai họ Lương Chiến Thắng 第二代祖), thuỵ Đức Long 德隆 có nhiều giai thoại, rất khó kiểm chứng, nhưng một số dấu tích còn lại và chi tiết lại phản ánh tương đối rõ:
- Về thế đất : Khi Tam Tổ sinh nam tử (Cụ Hinh) có thày địa lí đi qua coi thế đất và phán rằng: Gia trang Cụ Lý đặt trên đầu rồng, với 2 mắt rồng do đó cụ tuy giầu, đông con (4 nam) nhưng có nguy cơ tuyệt tự, con cháu dễ vào vòng lao lý, cần phải trấn yểm. Đầu tiên là cần trồng đủ 100 bụi duối dọc phía mi mắt rồng, khi nào cố bà sinh đủ 4 nam thầy sẽ sang giải bùa tiếp thì con cháu mới hưng vượng được.
Các bụi duối đã được Cụ Lý cho trồng dọc đường qua giữa xóm mà hầu hết là người họ Lương cư ngụ.
Đúng dịp Tổ Tỉ sinh nam tử thứ tư (cụ Thành) thì có 2 thày trò người Tầu sang buộc ngựa ở gốc duối to. Lúc này Cụ Hanh đã là phó Tổng và vừa cưới bà bé. Tổ không có nhà, Bà cả không tiếp vì cho đó là khách nhờ vả việc quan, sai con dâu ra nói là cụ Tổng đi vắng. Có bà hai mời nước, lén tiếp. Người khách trước khi bỏ đi có nguyền là: con gái cụ Tổng nói năng chỏng lỏn (thực ra đó là con dâu) nên đời sau gái sẽ khổ. Thương tình bà hai, người ấy đã nói gì đó với bà cố hai rồi bỏ đi.
Khi Tổ về nghe chuyện, biết thày Tầu sang giải bùa theo hẹn, cho người tìm nhưng không thấy, cụ buồn ốm rồi mất.
Mấy năm sau có người bán thuốc đột tử phía sau nhà, quan về thẩm tra và làm khó dễ mãi. Gia đình phải chịu mai táng xác đó tại vùng đất giữa 2 ao “mắt rồng”.Về sau có lập Miếu thờ mả Khách .
Người đời sau nói: vì lí do đó mà con cháu các Cụ Hinh, Tuynh, Thành, Chinh khá “vất vả”, nhiều người đông con trai nhưng lại không có cháu trai. Hoặc nếu có thì không khấm khá. Hậu duệ của cụ Trinh (con bà Hai) đông hơn và “khá” hơn. Đặc biệt con gái tuy đảm đang, nhưng vất vả về đường chồng con, gia cảnh và mặc dù đã lấy chồng vẫn thường phải do Lương tộc bọc đùm
- Về lời nguyền: Chuyện rằng Tổ học giỏi nhưng thi 2 lần không đậu vì phạm huý. Lần thứ 3 khi biết vẫn trượt, Cụ bẻ bút vứt xuống sông Văn Úc mà nguyền rằng: Từ nay con cháu ai theo nghiệp khoa bảng sẽ chết 1 đời cha, 3 đời con! Sau này có người suy luận chính vì lời nguyền đó nên tuy Cụ giáo Chinh nhiều con trai nhưng lại không có cháu trai thành ra vô tự !
Thực hư chuyện này thế nào không rõ nhưng có điều chắc chắn là:
+ Dấu tích còn đến nay như 2 cái ao (mắt rồng), một số gốc duối, miếu thờ mả Khách.
+ Thực tế:
- Bà cả đông con trai nhưng đời sau chả mấy thành danh. Riêng Cụ Hinh vì sinh từ trước nên nay còn khá đông cháu chắt, tương đối đỡ “nghịch” hơn, Cụ Tuynh có tới 8 nam nhưng cháu chắt ít, nhiều nhà vô tự, cụ Chinh, cụ Thành đều 3 nam nhưng không có cháu trai nên nay vô tự. Số trai hậu duệ của 4 cụ còn lại đến nay cũng chỉ bằng số trai hậu duệ của cụ Trinh và thường có người dính tới pháp luật.
- Bà hai hiền thục hơn, nghe nói có được thày Tầu giúp trừ yểm phần nào nên con cháu (chúng tôi) có “mát mặt” hơn, nhưng nhìn chung vẫn nghèo,v à tất cả đều tha phương.
- Mà con gái ngành này đều vất vả cả.
+ Những gái Lương tộc đã lên Lào Cai như cô Huấn, Cô Khuê, cô Thị hoặc các em tôi như Dưỡng, Sinh, Lí ...đều không tật bệnh thì gia cảnh khốn khó, chồng con lận đận.
-Lương Đức Mến, 16/5/Quý Mão-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!