Dù muốn hay không, trong số những người thuộc các thế hệ trước trong dòng họ, ngoài những người tham gia “chức dịch”,
“quan lại”, “thầy đồ”,...mà danh xưng các chức vị tương đối thông dụng, dễ hiểu với hậu sinh, còn có không ít người là “lính tập” mà các danh xưng, chức vị của số người này thường gây khó cho người đọc, dịch Gia phả hiện nay và càng khó cho sau này. Bởi các danh xưng đó thay đổi theo thời gian, vùng miền và có cả những danh xưng, chức vị đã đi vào quá vãng, không thể hiểu và dịch được, ngay cả với bên “chính quốc” !
Lính tập Đông Dương (tranh ST trên MXH) |
Do vậy, xin mạo muội sưu tầm, chép lại những gì đã thâu lượm được trong quá trình mò tìm như sau:
Lính tập (HN: 𠔦習,P: Tirailleurs indochinois) là các đơn vị quân đội bản xứ do người Pháp tổ chức thành lập nhằm phụ trợ cho quân chính quy trong việc đánh dẹp, bảo vệ an ninh thời Pháp thuộc sau khi chiếm được Nam Kỳ, rồi Bắc Kỳ, nằm trong Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ. Ngoại trừ quần áo, nón dẹp (sau này là nón chóp) thì sự phân biệt của các sắc lính dựa trên màu của dải dây thắt lưng được buộc ở bụng với đầu dải buông thõng xuống như 1 cái khố (thực ra khi ra trận chả ai đóng khố cả, toàn mặc quần!) nên chia ra:
+ Lính khố đỏ milicien à ceinture rouge hoặc tirailleurs indochinois: Quân đội người bản xứ lực lượng vũ trang của chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương tuyển mộ dùng làm quân đội chính quy trong việc đánh dẹp.
+ Lính khố xanh milicien à ceinture bleue hay garde provincial: giữ vai trò Bảo an, giống như Công an, cảnh sát ở các tỉnh.
+ Lính khố vàng milicien à ceinture jaune, garde royal à Hué: Công an, cảnh sát ở kinh đô Huế.
+ Lính khố lục: Công an, cảnh sát ở huyện.
Người Pháp mộ lính người Việt để đánh triều đình Huế từ năm 1860 khi họ chiếm được Đà Nẵng. Nhưng vì tỷ lệ đào ngũ khá cao nên không được tín nhiệm. Mãi đến năm 1879 sau khi người Pháp đánh chiếm được toàn đất Nam Kỳ thì mới thành lập đội ngũ lính bản xứ hẳn hoi, tổng cộng là 1.700 người. Nhiệm vụ chính là phòng giữ và canh gác.
Năm 1882 khi vụ Henri Rivière đem quân ra đánh phá Bắc Kỳ rồi bị mai phục chết ở Cầu Giấy (vào 5/1883) thì thống soái Nam Kỳ mới có lệnh chuyển lính khố đỏ Nam Kỳ ra Bắc để giúp quân đội Pháp. Trận đánh thành Sơn Tây được xem là trận giao chiến đầu tiên của lính khố đỏ. Sang năm 1884 với sắc lệnh ngày 13 Tháng Năm thì mới lập thêm đội lính khố đỏ Bắc Kỳ, chủ yếu mộ lính từ cộng đồng giáo dân theo đạo Thiên Chúa; ít lâu sau thì người Pháp mở rộng việc thu nạp, không phân biệt lương dân hay giáo dân.
Đội lính khố đỏ Bắc Kỳ đông hơn, tổ chức thành bốn trung đoàn (regiment) với tổng số 14.000 lính trong khi lính Nam Kỳ chỉ có một trung đoàn. Mỗi trung đoàn có bốn tiểu đoàn (bataillon) 1.000 người. Năm 1895 thì tăng lên thành năm trung đoàn lính khố đỏ Bắc Kỳ. Trung đoàn thứ năm có một số lớn dân thiểu số gốc Thổ và Mường. Như vậy tới năm 1886, lực lượng lính tập bản xứ chiếm tới một nửa trong số khoảng 30 ngàn quân Pháp có mặt tại Bắc Kỳ, tạo điều kiện cho Khâm sứ Pháp Paul Bert có thể rút dần một số đơn vị lính Âu về nước. Lính khố đỏ Nam kỳ tới năm 1905 cũng có ít nhất 4 trung đoàn.
Trong số các trung đoàn bộ binh Bắc kỳ, ba trung đoàn đầu tiên thuộc biên chế do Hải quân Pháp trả lương; trung đoàn thứ tư thuộc Bộ Binh. Ngoài tra, tồn tại trong một thời gian ngắn trước khi bị giải tán, còn có một lực lượng lính Truy kích An Nam (Chasseurs annamites), lương trích từ ngân khố của triều đình Huế.
Chỉ huy lính khố đỏ tất cả đều là người Pháp. Mỗi trung đoàn có một viên Đại tá (colonel) cầm lệnh. Mỗi tiểu đoàn có một Thiếu tá (major) và liên đoàn (compagnie) thì có Đại úy (capitaine, tiếng Việt thời đó gọi là "quan ba") chỉ huy.
Lính bản xứ chỉ được thăng cao nhất là làm phó quản (adjudant). Kém hơn là đội (sergent nay tương đương với trung sĩ) hoặc cai (caporal).
Thời Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất có khoảng 43.000 lính tập cùng với 49.000 lính thợ được chuyển sang Pháp một số bỏ mình ở Pháp, nay còn đải tưởng niệm ở nghĩa trang Saint-Pierre ở Aix-en-Provence
Tên quân hàm thời Đông Dương thuộc Pháp với người Pháp và người Việt:
QUÂN HÀM |
ĐƠN VỊ CHỈ HUY |
THU NẠP |
TIẾNG PHÁP |
TƯƠNG ĐƯƠNG |
THƯỞNG SAU HƯU |
|
Quan Sáu |
Gọi theo số vạch trên cầu vai hay ở ống tay áo |
sư đoàn (division) |
người Pháp |
colonel |
Đại tá |
Vì là người Pháp nên không có danh hiệu tương đương của triều đình nhà nguyễn phong thưởng |
Quan Năm |
trung đoàn (régiment) |
lieutenant colonel |
Trung tá |
|||
Quan Tư |
tiểu đoàn (bataillon) |
commandant, chef de bataillon |
Thiếu tá |
|||
Quan Ba |
liên đoàn (compagnie) |
capitaine |
Đại úy |
|||
Quan Hai |
lieutenant |
Trung úy |
||||
Quan Một |
sous-lieutenant |
Thiếu úy |
||||
Phó quản |
người Pháp và người Việt |
adjudant |
Chuẩn úy |
Chánh ngũ phẩm |
||
Đội bốn |
sergent-major |
Thượng sĩ |
Chánh lục phẩm (sergent) |
|||
Đội |
sergent |
Trung sĩ |
Tòng lục phẩm (sergent) |
|||
Cai |
người Việt |
caporal |
Hạ sĩ |
Chánh bát phẩm (caporal) |
||
Bếp |
tirailleur de 1⁰ classe |
Binh nhất |
Chánh cửu phẩm (tirailleur de 1re classe) |
|||
Lính |
tirailleur de 2⁰ classe |
Binh nhì |
Tòng cửu phẩm (tirailleur de 2e classe) |
Chú ý: Binh lính thời Nguyễn (Chúa và các triều Vua) mang các chức quan và phẩm trật khác với lính tập do Pháp tuyển mộ, sử dụng và trả lương kể trên.
Ví dụ: chức CAI ĐỘI (H: 該隊, A: Captain), hoặc Đội trưởng (隊長) là một chức võ quan, đứng đầu một đội (dưới Vệ), gồm 5 Thập, chỉ huy 50 người. Dưới Thập là Ngũ do Ngũ trưởng chỉ huy 5 người.
Cụ thế, xếp thứ bậc như sau:
PHẨM TRẬT |
QUAN TƯỚC |
TƯƠNG ĐƯƠNG |
ĐƠN VỊ CHỈ HUY |
Nhất phẩm |
Ngũ quân Đô Thống chưởng phủ sự, Ngũ quân Đô Thống |
Maréchal, Thống chế |
đạo |
Nhị phẩm |
Thống chế, Đề đốc, Chưởng vệ |
Général, Đại tướng |
doanh (2.500-4.800 lính) gồm 5 Vệ |
Tam phẩm |
Lãnh binh, Vệ úy, phó Vệ úy, Đốc binh |
Colonel, commandant de la Garde impériale (Đại tá) |
vệ (500-600 lính) tiếng Pháp: bataillon , gồm 10 Đội |
Tứ phẩm |
Quản cơ, phó Quản cơ, Hiệp quản |
Chef de régiment provincial (Trung đoàn trưởng, Tỉnh trưởng, Trung tá) |
cơ (500-600 lính) régiment |
Ngũ phẩm |
Cai đội |
Capitaine (Đội trưởng, Đại úy) |
đội (50 lính) compagnie , gồm 5 Thập |
Lục phẩm |
Chánh đội trưởng suất đội |
Lieutenant (Trung úy) |
|
Thất phẩm |
Chánh đội trưởng suất thập |
Sergent (Trung sĩ) |
thập (10 lính) escouade, gồm 10 Ngũ |
Bát phẩm |
Đội trưởng suất thập[9] |
Caporal (Hạ sĩ) |
ngũ (5 lính) section |
Cửu phẩm |
Thơ lại |
sergent-fourrier |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!