Mẹ con tôi thắp hương trước phần Mộ chi phái nhà tôi dịp về Lễ Tổ năm Giáp Ngọ 2015 |
Con cháu họ ta,
cũng như người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm
và sớm nhất, nó gần như trở thành một tín ngưỡng: Đạo ông bà. Nhưng do nhiều
nguyên do mà việc tưởng niệm này được thực hiện khác nhau. Việc Giỗ Tổ ngành
Hai cũng vậy.
1. Lược thuật về Đệ Nhị đại Tổ:
1.1. Lương
Công Nghệ 梁公羿 được Thượng Tổ Lương Công Trạch - Tổ tỷ Nguyễn Thị
Lã đưa từ Tổ quán 祖貫 là Đăng Lai 登來 (tổng Kênh Thanh 涇清,
huyện Tiên Minh 先明)
“bên nồi bên con” sang lánh nạn đói tại Hương Lạp (tổng Cao Mật) vào khoảng năm
1740-1750, đời Lê Hiển Tông-Trịnh Doanh.
Do họ Nguyễn vô
tự nên Cụ được thừa kế sản nghiệp, lấy vợ sinh 6 trai và 6 gái. Đời sau suy tôn
Cụ là Đệ Nhất đại Tổ 第一代祖 dòng họ Lương ở Cao Mật (Chiến Thắng,
An Lão, Hải Phòng nay).
6 Nam là: Con cả
tên Lẫm (hay Lắm, mất sớm, chưa vợ);
tiếp theo là: Tuấn, Chiêu, Tú, Thiệu và Linh. Nhưng Cụ Chiêu vô tự, chỉ 4 cụ
còn hậu duệ đến nay. Đó chính là Cụ Tổ các Chi họ Lương ở quê Chiến Thắng, An
Lão Hải Phòng hay từ đây ra đi lập nghiệp tại nơi khác.
1.2. Cụ
Lương Công Tú 梁公秀 thành Tổ Chi Hai 第二枝祖. Cụ là con thứ Ba
của Tổ (đời thứ Hai họ Lương Chiến Thắng 第二代祖), thuỵ Đức Long 德隆, hiền thục, gia tài giầu, muộn đường con cái. Kị ngày
29/5 (24/5 ?). Mộ phần tại bản quán.
Con cháu cư ngụ tại Mông Tràng Hạ 蒙場下, Hương Lạp 香粒, Tôn Lộc 尊祿 cùng Tổng Cao Mật (nay là xã Chiến Thắng,
huyện An Lão, thành phố Hải Phòng)
và đều mang họ tên đầy đủ là Lương Đức X 梁德X
.
So với các ngành thì ngành nay đông con cháu nhất.
Về sau một số con cháu vào Nam (1954,
1975), lên Lào Cai (1964-1971), số
đông vẫn ở lại quê.
2. Về ngày
giỗ Tổ ngành:
Sau,
quan viên họ họp lại thấy tháng 5 bận thu mùa nên đã chuyển việc giỗ họ từ ngày
kị Tổ phụ sang ngày kị Tổ mẫu (19/2)
và thực hiện tại nhà Lương Đức Thực (đời
thứ 7, là con ông Tơn, cháu cụ Huỳnh, chắt cụ Tuynh, chút cụ Hanh) ở Hạ.
Sau
khi L.Đ.Thực mất, từ năm 2006 chuyển sang nhà con Lương Đức Bường là Lương Đức Thành (đời thứ 8 tính từ cụ Tổ chung và là đời thứ
7 tính từ cụ Tổ ngành hưởng giỗ),
nghi lễ thường đơn giản. Theo thứ tự các đời tính từ cụ Tổ xuống là: Nghệ - Tú –
Xưng – Hòa - Ổn – Liên – Bường –Thành).
Trên
Lào Cai khá đông con cháu đã thực hiện trong
các năm 1989, 1993, 2007 tại Phong Niên, nhưng chưa thành phổ biến và một số
thành viên chưa tích cực tham gia.
Do năm
Giáp Ngọ (ứng với 2014 dương lịch)
nhuận tháng Chín cho nên ngày Thanh Minh 2015 (05/4) rơi vào trung tuần tháng Hai âm lịch mà cụ thể là Chủ Nhật,
ngày 05/4/2015 tức ngày 17/2 Ất Mùi gần ngày Giỗ Tổ Chi Hai (19/02). Lúc này, tôi
đã nghỉ hưu, mẹ sang tuổi 93 rất muốn về, “một công đôi ba việc” vợ chồng tôi
đưa mẹ, có cô Thường áp tải về quê. 50 năm xa quê, đây là lần đầu gia đình nhận
mộ trong ngày Thanh Minh, lần đầu dự Giỗ Tổ Chi. Tại buổi giỗ tôi đã đưa ra ý
tưởng, kế hoạch lập Gia phả Chi (ngành) được mọi người ủng hộ.
3. Văn khấn ngày Giỗ Tổ ngành:
Mấy lần dự Giỗ Tổ tôi thấy các chú, các
anh, các cháu ở quê sử dụng bài khấn có lẽ soạn từ đời các cụ ngang vai ông Nội
tôi mà lại không hiểu nghĩa cổ nên trong xưng hô không chuẩn. Tham khảo các bài
văn Tế, Khấn của các họ lớn, dựa vào bài Khấn bố tôi soạn trước kia và lịch sử
dòng họ, từ năm 1999 tôi soạn bài văn Khấn giỗ Tổ cho phái Lào Cai, hằng năm có
bổ sung, sửa đổi. Nay chỉnh sửa lại, đưa vào đây để quan viên họ tham khảo, sử
dụng (thay ngày tháng năm cho phù hợp).
Kính
nghe:
Có thờ có thiêng, có kiêng có lành; Có
Hiếu được đáp đền, có Kính ắt Phật, Thần phù hộ.
Cành rợp bóng, dòng chảy không ngừng vì
gốc vững, nguồn dài; Gia môn khang thái bởi Linh Miếu trường tồn, oai linh Tiên
Tổ.
Uống nước phải nhớ nguồn, hưởng trái
thơm nhớ ơn người trồng; Đó là nếp hiếu nghĩa ngàn xưa, là đạo cương thường vạn
cổ.
Bởi thế cho nên:
Nhân ngày Giỗ Tổ, ngưỡng vọng Tôn linh;
Từ nơi Tổ khai cơ lập nghiệp, Lễ bạc lòng thành, những mong tường tỏ.
Hôm
nay: Thứ ….ngày…., tức
19 tháng Hai năm….…..(âm lịch), gặp kỳ
tưởng nhớ Đức Tổ chi Hai,
Đứng trước bàn thờ tại gia đường tín
chủ con: Đệ Bát đại Lương Đức gia tộc, Trưởng đệ Nhị Chi là: Lương Đức
Thành, sinh năm 19…, hợp cùng Mẫu thân, bá, thúc, huynh, đệ tử, tức, tôn, tằng
nội ngoại, rể dâu tụ họp tại Gia từ,
Kính
lạy :
- Chín phương Trời,
năm phương Đất, chư Phật mười phương;
- Ngài Đại tướng quân, Hành khiển, Hành
binh Phán quan chi Thần đương niên năm…..(âm
lịch);
- Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng, các Ngài Thổ
Địa, Táo Quân, Long Mạch tôn Thần của xứ Phương Hạ;
Cùng là Hoàng Thiên, hậu Thổ, chư vị tôn
Thần.
Con tiếp
Kính thỉnh:
Đệ Nhị đại, Tổ đệ
Nhị Chi là Lương Công Tú thụy Đức Long và các Tổ tỉ: Đặng Thị Nhượng, Nguyễn Thị
Dụng, Hoàng Thị Châu, Đặng Thị Chiền;
Kính
thỉnh: Thủy tổ Lương Công Trạch, Tổ tỉ Nguyễn Thị
Lã;
Đệ Nhất Đại Tổ Lương Công Nghệ, Tổ Tỉ
Lương Thị Còi, tức Ngỗi;
Đồng
kính thỉnh:
-
Đệ Tam đại, Tổ phái Nhất
đệ Nhị Chi là Lương Đức Xưng, Tổ tỉ Vũ Thị Đào;
- Đệ Tam đại, Tổ phái Nhị đệ Nhị Chi là
Lương Đức Hanh, Tổ tỉ Đặng Thị Chẻo và
Chưa rõ danh
- Đệ Tam đại, Tổ phái Tam đệ Nhị Chi là
Lương Đức Lân; Đệ Tam đại Lương Đức Mã; Đệ Tam đại Lương Đức Ly; Đệ Tam đại
Lương Đức Phượng
cùng Hương linh Lương tộc Lịch đại tổ
tiên, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Hiển khảo, Cô, Ry, Tỉ, Muội, Huynh, Đệ và các bậc phụ thờ
theo tiên tổ của Lương tộc.
Cùng các vong linh Tiền chủ, Hậu chủ, y
thảo phụ mộc ở trong vùng.
Giáng lâm trước án nghe con kính trình:
MỪNG HÔM NAY:
Trời tháng Hai khí sáng, trời xanh, Đất
Phương Hạ rộn vui xóm ngõ;
Ngắm núi Voi sừng sững, tưởng lại cội
xưa, Nhìn sông Úc vỗ bờ, nghĩ về nguồn cũ;
Con cháu chi Hai, Từ mọi phương hướng về
đất Tổ.
Tụ họp tại Gia đường cùng nhau Giỗ họ.
NHỚ THUỶ TỔ XƯA:
Sinh tại Tiên Minh; Mộc Thủy[1] thế phổ.
Nhà 2 con gặp cảnh điêu linh; Nước “lưỡng
chế” cơ đồ nghiêng ngửa.
Xứ Đông lụt lội, bao cảnh tang thương;
Làng xóm xác xơ, đời càng thêm khổ.
Đành một gánh từ bỏ quê hương; Dắt vợ
con tìm nơi dễ thở.
Thấy bên tả sông Văn nước ngập, muỗi đầy,
người vẫn còn thưa; Bèn sang đó đắp bờ thau chua, rửa mặn, phát hoang, cầy vỡ.
Công sức mồ hôi đã thấu đến trời, Lại được
họ Nguyễn, họ Mai giang tay giúp đỡ.
Xây thành xóm, thành ruộng thành đồng;
Dựng nên nhà, nên chồng, nên vợ.
Hoài cố hương, trở lại Đăng Lai; Tiếp
căn cơ và hương khói Tổ.
Lưu cháu con xây dựng Hạ Hương; Khởi tổ
tiên họ Lương tân thổ.
ĐỨC TỔ TA:
Cha vốn gốc Phương Lai, Mẹ Quan Bồ cùng
lộ.
Tuổi thơ ấu, xa cách chẳng biết nhau, Thời
khôn lớn nên duyên chồng vợ.
Tiếp việc mẹ cha xây dựng Hạ Hương, Bao
công sức, khơi mương, vượt thổ.
Bồi lấp bãi lầy, Dọn quang lăn, cỏ.
Đây Cốc Tràng, Tôn Lĩnh, Kim Côn khi
sương chiều, khi nắng sớm, nghĩa hương thôn ấm lạnh đỡ đần; Kìa Hương Lạp, Mông
Tràng, Tôn Lộc, lúc nắng Hạ, lúc mưa Đông, tình xóm làng răng môi gắn bó.
Việc cấy cày, đã hết dạ chăm lo; Đường học
vấn, còn dày công dạy dỗ.
Thuật xử thế ngoài êm trong ấm, thầy hay
bạn tốt, chọn nhân nghĩa phương châm; Việc tề gia trên thuận dưới hòa, con thảo
cha hiền, dùng hiếu từ quy củ.
Công ơn mở đất, ai cũng kính yêu; Tâm
huyết xây quê, đời càng thấy rõ.
Theo đà tiến triển, cùng dân cũ tô điểm
quê cha; Giữ nếp cổ truyền, nhớ cội nguồn dựng xây đất tổ.
THẾ RỒI :
Đang lo cấy cày, gặp buổi nhiễu nhương;
Lại thương nỗi nhân dân đói khổ.
Vâng mệnh trên, Văn Úc xuôi dòng; Việc
loạn đảng phò Vua dẹp bỏ.
Rằm tháng Giêng phỉ bình nhưng Cụ bị trận
vong; Nhớ lời dặn, cháu con chọn làm ngày giỗ Tổ.
Sống nhiệt thành, tử trận linh thiêng; Với
hậu thế Người luôn phù hộ.
ĐẾN
ĐỨC TỔ CHI:
Tính hiền thục, trí học giỏi giang, chuyện
họ chăm lo, việc làng gắng cố.
Được vợ đảm nên rộng ruộng vườn lắm gia
nhân; Trời thử thách để chậm đường con,
Nghe họ hàng nạp thêm 3 vợ.
Sinh được 6 nam, cưới gả quanh vùng cháu
con ngày càng đông đàn dài lũ.
Người mất tháng Năm giữa lúc thu mùa; Nhớ
Tổ tỉ ra đi làm ngày Giỗ Tổ.
HẬU DUỆ TRUYỀN :
Noi gương Tổ: ngày thất bát hai vợ chồng-
Bên nồi, bên con, thau chua rửa mặn lập ra làng xóm, gây nghiệp kiệm cần; Học
tiền nhân: Buổi khai hoang vài chi phái- Vượt núi, băng rừng, san đồi, vỡ ruộng
dựng nên thôn phố, xây dòng tiến bộ.
Lời xưa, ý nay bồi đắp: đạo Thánh hiền
cháu con ghi nhớ noi theo; Đất cũ, làng mới xum vầy: tình cốt nhục khắp nơi
thân thương gắn bó.
Đức khai cơ cao tựa núi Voi; Ân dưỡng
dục dài hơn sông Úc.
Mênh mông bể cả, tổ ấm tài bồi; Thăm thẳm
non cao, tôn công tế độ.
Để có ngày phú quý, bao công sức đổ xuống
đất này; Vì sự nghiệp mai ngày, biết bao lần vượt khó.
Quê hương đổi mới nhờ địa lợi mà bát
ngát màu xanh; Nội lực phát huy lấy nhân hoà để vượt qua gian khổ.
ĐÚNG LÀ:
Tu nhân, tích đức, Phật đền cho; Khổ tứ,
lao tâm, Trời chẳng phụ.
Trải lúc cơ trời biến cải, dù buổi thái
bình hay cơn binh lửa, sức âm phò quả đã vô cùng; Qua tuần cuộc thế đổi thay,
dù nơi đất khách hoặc chốn quê nhà, ơn mặc trợ mỗi ngày mỗi tỏ.
Đất lành người đảm, đời này sang đời nọ,
thụ hưởng hồng ân; Nhân tốt quả xinh, lớp
trước tiếp lớp sau, đượm nhuần phúc thọ.
NAY GẶP BUỔI:
Kinh tế thị trường, Giao lưu mở cửa.
Dẫu đã hướng đi lên; Còn muôn điều thách
đố.
Sao cho kịp bước canh tân, Để khỏi
mang danh bảo thủ.
Học ông cha: mở óc suy tư, Cùng
dòng họ: bền gan gắng cố.
Khắp tứ phương: Nam , Bắc, ngược, xuôi, Dù bách nghệ:
sĩ, nông, công, cố.
Đường kinh doanh đã quyết là thành, Nghiệp
khoa cử đã thi là đỗ.
BỞI THẾ CHÁU CON NAY:
Tu sửa Gia đường; Chỉnh trang Phần mộ.
Nhớ người góp công sửa chỗ đi về; Ghi
người công đức xây nơi thờ tự.
Mộ phần tu chỉnh, nghìn thu cựu tích tô
bồi; Tự sở phong quang, sáu Phái cơ ngơi minh lộ.
Sưu tầm tài liệu, thi văn tuyển trạch,
phụ lục dồi dào; Bổ túc di dung, thế thứ phân minh, Phái Chi đầy đủ.
HÔM NAY :
Sát cánh bên nhau, Trước bàn thờ Tổ.
Sắm hương hoa, một lễ chân thành; Tưởng
công đức muôn phần ngưỡng mộ.
Nghe Chúc văn, lưu công đức muôn đời; Dõi sơ đồ, rõ quế hòe trăm nụ.
Cúi
nguyện nghĩ: Vầng nhật nguyệt
sáng rạng mười phương; Đức Tổ tông lưu danh muôn thuở.
Ngẩng cao trông: Phúc ấm nối đời, “Tế thần,
thần tại'” giáng nơi Từ Đường; Cháu con thờ phụng, “Xuân kị Thu thường” đều kỳ
cúng giỗ.
Thắp nén hương nghi ngút tại Gia đường,
Đặt cành hoa ngạt ngào bên mộ Tổ.
Tấm lòng tôn kính, lễ bạc tiến nghinh;
Văn tế nôm na, tấc thành biểu lộ.
Tưởng nhớ ân sâu Đấng Anh Linh, Tâm nặng
nghĩa dầy Tiên Liệt Tổ.
Nguyện Hiếu, Trung, vì Nước vì Dân, Tròn
Tình, Nghĩa với Đời, với Họ.
Mang Chính Tâm dạy cho con cháu, lấy
Nhân Tín làm điều xử sự.
Người ở quê giữ phần hương khói chăm sóc
Gia đường, tạo tôn phần mộ.
Kẻ đi xa khơi dòng ôn cố, dốc tâm dựng
cơ đồ, rạng danh đất cũ.
CÚI XIN:
Lương tộc Lịch đại Tổ tiên từ cõi linh
thiêng, Ân Đức dẫn đường giúp con cháu ngày thêm tiến bộ.
Để mọi người đạt thành may mắn; Cho toàn
gia Khang Ninh Phúc Thọ.
Làng xóm mạnh giầu, Quốc cường, dân phú.
Khắp ngược xuôi, Hạnh phúc Yên Vui, dòng
Lương tộc mãi mãi sáng danh; Đều trai gái, công đức ngàn trùng, giữ nếp gia
tiên, khói hương muôn thuở.
Lòng thành kính bái, xin được chứng
minh; Ước vọng dâng lên, kính xin tế độ.
Cúi xin Tiên Tổ chứng
minh, phù hộ
-Cẩn
cáo-
[1] Bộ Mộc 木
ghép với chữ Thủy 水 viết dưới dạng bộ 氵thành
ra chữ Lương 梁, chỉ tên
dòng họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!