Vòng Tiết khí do LĐM vẽ lại theo BKTT mở |
1. Từ nhu cầu tâm linh, vui chơi:
Khi xã hội loài
người phát triển đến một mức độ nhất định, ngoài nhu cầu ăn mặc, duy trì nòi
giống còn có nhu cầu vui chơi, giao tiếp, tâm linh. Từ đó có “Lễ, Hội, Tết” là
những sinh hoạt đặc thù chỉ có ở loài người, là nền tảng của đời sống chung từ
gia đình, xóm làng, đến cả nước và lan ra toàn cầu. Những sinh hoạt này lấy tự
nhiên, vũ trụ làm trục dọc, và nhân sinh làm trục ngang, hòa hợp trời, đất với
con người. Cùng với sự phát triển của xã hội, có những “Lễ, Hội, Tết” phai nhạt
đi, ngược lại có những “Lễ, Hội, Tết” đậm nét hơn hoặc “Lễ, Hội, Tết” mới xuất
hiện.
Tùy từng “Lễ,
Hội, Tết” khác nhau mà chúng được tiến hành vào một thời gian nhất định, tùy phép làm lịch, hay Lịch pháp 曆法 được ghi trong Lịch thư (H:曆書, A: Almanac, P: Almanach). Ở Việt
Nam hiện nay thông dụng là theo Dương lịch (陽曆, The
sun calendar/Le calendrier solaire) theo chu kỳ mặt Trời 日 được biểu diễn bằng các con số trên tuyến tính (linear)hay theo Âm lịch (陰曆, lunar
calendar/ Le calendrier
lunaire)
dựa
vào chu kỳ mặt Trăng月 tính chu kỳ (cyclic) với tên gọi Can Chi 干支 trong Lục thập hoa Giáp 六十花甲.
Phần lớn các “Lễ,
Hội, Tết” cổ truyền của Việt Nam
đều tính theo Âm lịch. Nhưng hiện nay âm lịch đang dùng là Âm Dương lịch 陰陽曆, là lịch kết hợp
được cả chu kỳ Mặt Trăng và chu kỳ Mặt Trời hình
thành từ thời Minh (明朝,1368 – 1644) và hoàn chỉnh
như ngày nay dưới triều Thanh (清朝, 1644 - 1911). Ba mốc thời gian căn bản để tính
lịch này là: Ngọ (午, giữa trưa), Sóc ( 朔, đêm không trăng, tức ngày Mồng Một hằng tháng) và Đông chí (冬至, mặt trời ở thấp nhất trong năm,
thuộc tháng thứ 11 trong lịch Âm).
2. Tiết khí được tính theo Dương lịch:
Tiết khí (節氣, Minor Solar Terms) là 24
điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi điểm cách nhau
15°. Tiết khí được sử dụng trong công tác lập lịch của các nền văn minh phương
đông cổ đại như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên để đồng bộ hóa các
mùa, phục vụ cho việc canh tác nông nghiệp.
Vì quỹ đạo của
Trái Đất là một hình elíp rất gần với hình tròn chứ không phải là một hình tròn
nên vận tốc di chuyển của Trái Đất trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời không phải
là một hằng số. Do đó khoảng cách tính theo thời gian giữa các tiết khí không
phải là con số cố định.
Trong phép làm
lịch, các nhà làm lịch đã làm tròn thời điểm bắt đầu của mỗi tiết khí vào đầu
ngày mà tiết khí đó bắt đầu. Nên khoảng cách giữa hai tiết khí kề nhau sẽ ở
trong khoảng 14-16 ngày, bằng 1/24 của quỹ đạo năm. Đ đó là các thời điểm mà
kinh độ mặt trời có các giá trị 0°, 15°, 30°, 45°, 60°, ..., 345.
Thời tiết đầu
tháng gọi là Tiết khí (Minor Solar Terms),
giữa tháng là Trung khí (Major Solar Term) nó phản ánh sự thay
đổi của 4 mùa (như Lập Xuân, ), sự
biến đổi của khí hậu (Tiểu thử,), sự
công việc của nhà nông (Kinh trập, )…Trong
đó, bốn đỉnh điểm của quỹ đạo ở vào bốn tiết khí phân mùa là Đông chí, Hạ chí,
Xuân phân, Thu phân, các tiết khí khác ở vào các cung đoạn mà khí hậu có những
điểm diễn biến đặc thù tên gọi của các
tiết khí lấy theo tính chất đặc điểm của khí hậu mùa tiết để gọi.
Như vậy, tiết
khí phải được tính theo tính theo dương lịch, không thể theo âm lịch, dù là âm
dương lịch. Nhưng cần nhớ rằng Trung Quốc lấy múi giờ Bắc Kinh, còn Việt Nam
lấy múi giờ Hà Nội nên lịch Trung luôn trước lịch Việt 1 giờ. Do đó cẩn trọng
khi đem lịch Tầu áp vào việc ta!
3. Cần phân biệt:
- 4 “chí” là các
điểm diễn ra hay bắt đầu các tiết Xuân phân (H: 春 分, A:vernal equinox), Hạ chí (H: 夏 至, A: summer
solstice), Thu phân (H: 秋分, A: autumnal equinox), Đông chí (H: 冬至, A: winter
solstice) đối với Bắc bán cầu.
- 24 Tiết khí
do 6 bước phụ trách: Sơ khí (Đại hàn, Lập
xuân, Vũ thủy, Kinh trập); Nhị khí (Xuân
phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ); Tam khí (Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử); Tứ khí (Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ); Ngũ
khí (Thu
phân, Hàn lộ, Sương giáng, Lập đông); Trung khí (Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn).
- 24 tiết khí
được chia làm 4 loại:
+ Biểu thị sự
thay đổi của 4 mùa có 8 tiết khí: Lập xuân, Xuân Phân; Lập Hạ, Hạ chí; Lập thu,
Thu Phân; Lập Đông, Đông Chí.
+ Biểu thị cho
sự thay đổi của nhiệt độ (khí hậu) có 5 tiết khí: Tiểu Thử, Đại Thử, Xử Thử,
Tiểu Hàn, Đại Hàn.
+ Biểu thị cho
sự liên quan đến mưa, nước có 7 tiết khí: Vũ Thủy, Cốc Vũ, Bạch Lộ, Hàn Lộ,
Sương Giáng, Tiểu Tuyết, Đại Tuyết.
+ Biểu thị cho
sự vật, hiện tượng có 4 tiết khí: Kinh Trập, Thanh Minh, Tiểu Mãn, Mang Chủng.
4. Các Tiết khí trong năm 2016:
(AM = Ất Mùi,
BT = Bính Thân, G = tháng Giêng)
TT
|
TIẾT
KHÍ
|
HÁN TỰ
|
NGHĨA
|
THỨ
|
NGÀY
THÁNG
|
|
ÂM
LỊCH
|
D.
LỊCH
|
|||||
1
|
Tiểu hàn
|
小寒
|
Rét
nhẹ
|
Thứ Tư
|
27/11/AM
|
06/01/2016
|
2
|
Đại
hàn
|
大寒
|
Rét
đậm
|
Thứ Tư
|
11/12/AM
|
20/01/2016
|
3
|
Lập xuân
|
立 春
|
Bắt
đầu mùa xuân
|
Thứ Năm
|
26/12/AM
|
04/02
|
4
|
Vũ
Thủy
|
雨 水
|
Mưa ẩm
|
Thứ Sáu
|
12/G/BT
|
19/02
|
5
|
Kinh trập
|
驚 蟄
|
Sâu nở
|
Thứ Bẩy
|
27/G/BT
|
05/3
|
6
|
Xuân
phân
|
春 分
|
Giữa
xuân
|
Chủ
Nhật
|
12/02
|
20/3
|
7
|
Thanh minh
|
清 明
|
Trời
trong sáng
|
Thứ Hai
|
27/02
|
04/4
|
8
|
Cốc vũ
|
穀 雨
|
Mưa
rào
|
Thứ Ba
|
13/3
|
19/4
|
9
|
Lập hạ
|
立 夏
|
Bắt
đầu mùa hè
|
Thứ Năm
|
29/3
|
05/5
|
10
|
Tiểu
mãn
|
小 滿
|
Lũ
nhỏ, duối vàng
|
Thứ Sáu
|
14/4
|
20/5
|
11
|
Mang chủng
|
芒 種
|
Chòm tua
rua mọc
|
Chủ Nhật
|
01/5
|
05/6
|
12
|
Hạ chí
|
夏 至
|
Giữa
hè
|
Thứ Ba
|
17/5
|
21/6
|
13
|
Tiểu thử
|
小 暑
|
Nóng
nhẹ
|
Thứ Tư
|
03/6
|
06/7
|
14
|
Đại
thử
|
大 暑
|
Nóng
oi
|
Thứ Sáu
|
19/6
|
22/7
|
15
|
Lập thu
|
立 秋
|
Bắt
đầu mùa thu
|
Chủ
Nhật
|
05/7
|
07/8
|
16
|
Xử thử
|
處暑
|
Mưa
ngâu
|
Thứ Hai
|
20/7
|
22/8
|
17
|
Bạch lộ
|
白露
|
Nắng
nhạt
|
Thứ Tư
|
07/8
|
07/9
|
18
|
Thu
phân
|
秋分
|
Giữa
thu
|
Thứ Năm
|
22/8
|
22/9
|
19
|
Hàn lộ
|
寒露
|
Mát mẻ
|
Thứ Bẩy
|
08/9
|
08/10
|
20
|
Sương
giáng
|
霜降
|
Sương
mù xuất hiện
|
Chủ
Nhật
|
23/9
|
23/10
|
21
|
Lập đông
|
立冬
|
Bắt
đầu mùa đông
|
Thứ
Hai
|
08/10
|
07/11
|
22
|
Tiểu
tuyết
|
小雪
|
Tuyết
xuất hiện
|
Thứ Ba
|
23/10
|
22/11
|
23
|
Đại tuyết
|
大雪
|
Tuyết
dầy
|
Thứ Ba
|
08/11
|
06/12
|
24
|
Đông
chí
|
冬至
|
Giữa
đông
|
Thứ Tư
|
23/11
|
21/12
|
5. Từ Tiết đến Tết:
Chữ “Tết” do chữ “Tiết” 節 mà
thành.
Một số ngày “Tết”
theo âm lịch, cố định hằng năm:
-Tết Nguyên đán
(1-1): buổi sáng đầu năm (tính theo Âm lịch).
-Tết Nguyên
tiêu (15-1): đêm rằm đầu tiên trong năm, treo đèn, còn gọi là thượng nguyên.
-Tết Hàn thực
(3-3): ăn đồ nguội, bánh trôi, bánh chay.
- Tết Đoan ngọ
(5-5): tết hoa quả, diệt sâu bọ, mừng con nước, đua thuyền...
- Tết Thất tịch
(7-7): hoặc tết Vu lan, xá tội vong nhân, cúng cô hồn (15-7) còn gọi Trung
nguyên.
- Tết Trung thu
(15-8): thưởng trăng, gia đình đoàn tụ, múa lân rồng...
- Tết Trùng cửu
(9-9): còn gọi là trùng dương, số 9 là con số của trời, cầu trời mưa thuận gió
hòa.
- Tết Hạ nguyên
(15-10): tết cơm mới, mừng mùa màng thu hoạch...
Như vậy, năm
2016 không có ngày “Tết” nào trùng với ngày “Tiết”, cũng như việc chẳng mấy khi
ngày “Tiết Lập Xuân” trùng với ngày “Tết Nguyên đán” cả!.
6. Tết Nguyên Đán:
Hai chữ
“Nguyên Đán” 元旦 có gốc từ chữ
Hán, trong đó: “Nguyên” 元 có nghĩa là sự khởi đầu
hay sơ khai và “Đán” 旦 là buổi sáng
sớm. Tết Nguyên Đán được người Trung Quốc ngày nay
gọi là Xuân Tiết 春節, Tân Niên 新年
hoặc Nông Lịch Tân Niên 農曆新年.
Vì Tết tính
theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán muộn
hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu
năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 01 Dương lịch và
sau ngày 19 tháng 02 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa
tháng 2 Dương lịch và nó kéo dài khoảng nửa tháng (23 tháng Chạp năm cũ đến hết ngày 7 tháng Giêng của năm mới âm lịch).
Do cách tính
của âm lịch Việt Nam có khác
với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam
đôi khi không hoàn toàn trùng với Xuân tiết của người Trung Quốc mà có thể
chênh lệch 1 ngày (như vào các năm 2007,
2030, 2053, Tết Việt Nam
trước Tết Trung Quốc 1 ngày).
7. Xác định ngày Mồng Một Tết:
Trong thực
tế, rất ít khi có tháng 11 nhuận hoặc 12 nhuận vì những Trung khí nằm tương đối
sát nhau trong thời gian này (trên quĩ đạo
bầu dục, trái đất lại gần mặt trời hơn vào mùa đông của bắc bán cầu nên đi
nhanh hơn). Do đó có thể tính khá đúng ngày Tết bằng những quy tắc ước tính
(rules of thumb) như sau :
1. Tết là ngày mồng 1
(ngày Sóc) thứ hai sau Đông Chí. Quy tắc này đúng từ cải cách lịch 1645 cho
tới nay, nhưng tới năm 2033 sẽ sai.
2. Tết là ngày mồng 1
(sóc) gần tiết Lập Xuân (4 hay 5/2 DL) nhất. Quy tắc này, khi áp dụng cho
Trung Quốc, đã sai vào năm 1985 và năm 2015.
3. Tết là ngày mồng 1
(sóc) đầu tiên sau khí Đại Hàn (20/1 DL). Quy tắc này, khi áp dụng cho
Trung Quốc, đã sai vào năm 1985 và sẽ sai vào năm 2053.
Trong phép làm lịch dương có đường đổi ngày
quốc tế (H: 国际日期变更线, A: International Date Line,
P: Ligne de changement de date) là một đường
tưởng tượng dùng để làm ranh giới giữa múi giờ UTC +12 và UTC -12, đi gần với
kinh tuyến 180 độ kinh Đông từ Bắc Cực, qua eo biển Bering, Thái Bình dương,
cho đến Nam Cực. Theo quy định
đó (Hội nghị quốc tế về kinh tuyến họp tại Washington năm 1884), khi các phương tiện giao thông đi ngang qua
đường này, ngày tháng sẽ phải thay đổi. Cụ thể từ bán cầu Tây
sang bán cầu Đông qua đường này thì phải tăng 1 ngày và ngược lại đi từ bán cầu Đông sang
bán cầu Tây phải giảm 1 ngày. Việc theo múi giờ Hà Nội (UT + 7 giờ, 1050 kinh Đông), Trung Quốc tính theo
múi giờ Bắc Kinh (UT + 8 giờ, 1200 kinh
Đông) là có tính khoa học do vị trí địa lý
từng nước.
Trong Âm lịch cũng có Đường Đổi ngày, nhưng nó không nằm một
chỗ ở giữa Thái Bình Dương như
đường đổi ngày trên (1800)
mà mỗi tháng di chuyển tùy theo vị trí của trái đất ở điểm Sóc 朔. Khi nó nằm
trong múi giờ của Hà Nội thì suốt tháng đó Việt Nam đổi ngày trước Trung Quốc
23 giờ (lúc VN nằm trong khoảng
23:00-24:00 thì TQ đã nằm trong
khoảng 00:00-01:00 ngày hôm sau). Nếu điểm Sóc
rơi vào khoảng thời gian 60 phút đó thì, theo nguyên tắc căn bản thứ 2 của Âm
lịch, tháng AL Việt Nam sẽ bắt đầu ngày hôm trước và tháng Âm lịch Trung Quốc
sẽ bắt đầu ngày hôm sau. Và nếu tháng đó là tháng Giêng thì Tết Việt Nam sẽ tới
trước Tết Trung Quốc một ngày!
Năm 1985 Tết Việt Nam ăn Tết trước Trung
Quốc tới một tháng bởi trước đó, năm 1984, Đông chí rơi vào 23:22 ngày
21/12 DL, giờ Hà Nội, tức là 00:22 ngày 22/12 DL, giờ Bắc Kinh. Đồng thời, ngày
Sóc (mồng 1) tháng Âm lịch rơi vào
ngày 22/12 DL ở cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội. Sự trùng hợp này khiến, theo nguyên tắc
căn bản thứ 3 của Âm lịch , tháng 11 Âm lịch Việt Nam kết thúc vào 21/12 DL ở
Hà Nội, nhưng tháng 11 ÂL Trung Quốc lại khởi đầu 22/12 DL ở Bắc Kinh. Do đó
Đông Chí nằm ở tháng trước của VN và tháng sau của Trung Quốc. Vì tháng nào có
Đông Chí phải là tháng 11 ÂL (nguyên tắc
căn bản 3) nên tháng 11 của VN tới trước tháng 11 của TQ. Do đó Việt Nam
dẫn trước và ăn Tết trước Trung Quốc một tháng.
Năm nay, Lập
Xuân vào ngày 04/02/2016, tức là ngày 26 tháng Chạp của năm Ất Mùi (chưa sang Bính Thân).
Ngày thứ 39
trong của năm 2016 (08/02) lịch Gregory hội đủ 3 tiêu chí của quy tắc ước tính
trên, dó đó thứ Hai ngày 08/02/2016 đó là ngày Mồng Một Tết Bính Thân, là ngày
Canh Thân, nạp âm Thạch lựu Mộc.
8. Thanh Minh không phải là Tết Hàn Thực:
Thanh minh 清 明 là
“Trời trong sáng”, luôn rơi vào ngày 4/4 hoặc 5/4 dương lịch. Trong khi đó theo
âm lịch thì trồi sụt lúc thì tháng 2, lúc thì tháng 3 không theo một qui luật
nào cả. Đặc biệt, năm 2009, Thanh minh rơi vào ngày 4/4 dương lịch nhằm ngày
10/3 theo lịch âm Việt Nam
nhưng lại là ngày 9/3 theo lịch âm Trung Quốc. Có nghĩa là cho dù có khác về
ngày tháng nhưng ngày tiết vẫn như nhau.
Tiết Thanh Minh
năm 2016 năm nay vào ngày thứ 95 của năm 2016, tức là ngày 04/4/2016, theo Âm
lịch là ngày 27/02 Bính Thân trước ngày Tết Hàn thực 寒食 03/3 âm (09/4/2016) gần 1 Tuần[1].
Do vậy, dù có làm bánh Trôi, bánh Chay
vào 03/3 Âm thì việc “Tảo mộ”, “Đạp thanh” vẫn phải diễn ra vào tiết Thanh Minh,
nghĩa là theo Dương lịch.
- Lương Đức Mến,
giáp tết Bính Thân 2016-
[1] Có người dẫn câu Kiều “清 明 瑉 節 斘 倈”, tức “Thanh minh
trong tiết tháng ba” để nói rằng: Mồng 3 tháng 3 là Thanh Minh.
Xin nhắc là trước câu đó 3
câu, Đại Thi hào đã viết: “ 韶
光 佂 泎 乑 外 婅 厰”, tức “Thiều
quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
Như thế, cách đây mấy thế
kỷ, Cụ Tố Như đã biết Thanh minh đến khi mùa Xuân (“Thiều quang”, từ Lập Xuân
đến Lập Hạ) qua được 2/3 (60/90) thời gian! Tức là Tiết Thanh minh phụ thuộc
vào tiết Lập Xuân, mà tiết khí lại xác định bởi “lịch mặt trời” đâu phụ thuộc
vào ngày âm!
Do vậy “Thanh minh” dứt
khoát tính theo lịch dương, còn việc ngày 03/3 âm sắm bánh trôi, bánh
chay...cúng lễ ấy là tâm linh, tùy mỗi người, mỗi nhà, mỗi nơi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!