Nam Mô A Di Đà
Phật! (3 lần)
Tín chủ con Kính lạy: Chín phương Trời, Năm phương Đất, Chư
Phật mười phương; Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần; Đương Giáp Ngọ niên Chí
đức Tôn thần: Chương Thành Đại tướng Quân; Đương niên chi Thần: Tấn Vương Hành
Khiển, Thiên Hao chi Thần, Nhân Tào Phán quan; các ngài Bản cảnh Thành hoàng
chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân: Đông
trù Tư mệnh Táo phủ thần quân, Thổ địa Long mạch Tôn thần, Ngũ phương, Ngũ Thổ,
Phúc đức Chính thần và Chư vị thần linh cai quản xứ An Phong.
Trưởng Nam Lương gia Kính lạy: Hương linh Hiển
khảo Lương Đức Thân; Kính lạy Tằng tổ khảo: Lương Đức Trinh, Tổ tỉ: Nguyễn Thị
Lễ; Tổ bá phụ khảo: Lương Đức Quýnh; Tổ cô: Lương Thị Mẹt; Tổ khảo: Lương Đức
Trính, Tổ tỉ Đặng Thị Chỉ cùng các vị Nội Ngoại tiên linh, Thúc, Bá, Cô, Dì,
Đệ, Huynh, Tỉ, Muội, các vong linh phụ thờ,
Con: Lương Đức Mến tuổi Ất Mùi, SN 1955; Là Trưởng Nam của
Lương gia gốc Phương Hạ, Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng, chuyển quán hiện ở:
thôn An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai cùng Mẫu thân, các
em, các con, các cháu tụ họp tại Gia đường kính cẩn thưa trình:
Hôm nay là ngày 13 tháng Chạp năm Giáp Ngọ, vào năm thứ 70 của nước
CHXHCN Việt Nam, tức là vào Chủ Nhật, ngày 01 tháng 02 năm 2015 là ngày giỗ
Hiển khảo Lương Đức Thân (hiệu…….), tạ thế lúc 2 giờ 5 phút sáng ngày Thứ Ba
21/01/1997 (tức là ngày 13 tháng Chạp năm Bính Tí); Mộ phần đã Cát táng, đặt
tại nghĩa địa nhân dân thôn An Phong, xã Phong Niên huyện Bảo Thắng từ ngày
20/12/2001 (tức 06 tháng Mười Một Tân Tỵ).
Chúng con Thành tâm sắm lễ: quả cau lá trầu,
hương hoa trà quả, nước, rượu mã vàng, cơm canh rau thịt; thắp nén tâm hương,
dâng lên trước án, có lời thưa rằng: gia đình vừa hoàn thành việc sửa chữa,
nâng cấp căn nhà mà phụ thân dựng năm Nhâm Tuất 1982 ở thôn An Phong, xã Phong
Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai cho sáng sủa, ấm về mùa Đông, mát về mùa hè
làm nơi ở cho mẫu thân, chỗ đi về cho anh em con cháu và nơi thờ phụng tổ tiên,
hiển khảo.
Nhân kị nhật Hiển khảo, chúng con lòng thành lễ vật dâng
lên trước án,
thành tâm kính mời: Ngài Đương Niên Chi Thần,
Đương cai Thái Tuế chí đức tôn thần; Ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại
Vương, Bản xứ Thần Linh Thổ Địa; Ngài Định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa
long mạch Tôn thần và tất cả các vị Thần Linh cai quản ở trong khu vực này;
Chúng con tiếp kính thỉnh Hương linh Hiển khảo,
tiên tổ các bậc phụ thờ theo tiên tổ của Lương tộc cùng các vị Tiền chủ, Hậu
chủ và các vị Hương linh khai mở đất này, lẩn khuất quanh đây, các linh hồn chiến
sĩ trận vong vì nước, các oan hồn uổng tử không nơi nương tựa, các hài nhi yểu
mệnh
xin cùng giáng lâm trước án, thụ hưởng lễ vật,
Chứng minh lời khấn nguyện của cháu con:
Hôm nay:
Trời sang Xuân:
nhìn cháu con ơn kẻ trồng cây; Đất cuối xóm, ngắm cơ ngơi nhớ người khai
quyết.
Nhành hoa tươi
với mâm cỗ đơn sơ; Nén Tâm nhang dâng hương linh tiên liệt.
Nhớ tiên linh xưa :
Úc Giang tưới đất
địa linh; Tượng Sơn sinh người nhân kiệt.
Quý Hợi ra đời
khi ách đô hộ phủ khắp xóm làng; Sớm trải khó khăn bởi cảnh nhà khốn khó.
Cha hết ra mỏ lại
xuống tầu tìm kế tha phương; Mẹ vừa xáo xén kiêm gánh gồng quanh vất vả.
Thủa ấu thơ lúc
cắt cỏ chăn trâu, lúc đi ở trông em; Niềm vui, sự học khi trăng mờ, trăng tỏ.
Buổi cờ sao, tham
gia chẳng quản ngại khó khăn; Ngày kháng chiến, hoạt động đâu kể gì sương gió.
Đón Hoà bình mở
lớp Bình dân; Vui Hợp tác chỉnh trang xóm ngõ.
Hôn phối tăng
tình thân Phương Lạp - Cốc Tràng; 10 bận gieo được gặt 7 lần biết bao gian khó.
Đến tháng Hai năm
1964 :
Do ở quê đất chật
người đông, phải đưa gia đình rời bỏ đất chôn ra, lên chốn biên cương, thực thi
kế hoạch khai hoang rừng rú.
Lại những ngày
tay trắng khai cơ chặt cây mở lối, san núi, be bờ, dạ luôn hướng tới tương lai;
Qua bao bận chí bền vượt khó, chiếu đất màn trời, vỡ ruộng, dựng nhà lòng vẫn
nhớ về đất Tổ.
Nơi quê mới, mấy
nhà chung mái ấm, lo dạy trẻ, chăm già; Chốn biên thùy, 12 hộ chí gan bền,
quyết gắng công vượt khó.
Một thời khai
hoang, mặc muỗi độc rừng thiêng; Mấy bận xây nền, dù đói ăn vất vả.
Với bà con lo cái
ăn, cái mặc khởi nghiệp vươn mình; Cùng cháu trai mở lớp Vỡ lòng ra công dạy
dỗ.
Rồi từ đó:
Song thân tần tảo
sớm khuya; Đàn con học hành gắng cố.
An Phong ngày một
chuyển mình; Gia đình qua thời khốn khó.
Trong hoàn cảnh:
em mất, cháu hi sinh; Chốn dương trần mình người chống đỡ.
Vào tháng 2 năm
79:
Lửa chiến tranh
tái diễn nơi đây; Nhà cháy, vườn hoang lại thêm tân khổ.
Con: đứa đi học,
đứa tòng quân, đứa ở nhà vẫn tuổi dại thơ; Hai tay trắng lập lại cơ đồ mơ ngày
hoan lộ.
Đến kỳ đổi mới:
Ngày tái lập, con
cái đến lúc trưởng thành; Buổi hòa bình cảnh nhà qua thời khốn khó.
Giữa những ngày
Vợ về quê giỗ đấng sinh thành; Chẳng ốm đau, Người ra đi không lời di chú.
Thế mới hay:
Để có ngày phú
quý, bao công sức đổ xuống đất này; Vì sự nghiệp mai ngày, biết bao lần vượt
khó.
Quê hương đổi mới
nhờ địa lợi mà bát ngát màu xanh; Toàn gia phát huy lấy nhân hoà để đạp lên
sóng gió.
Đến hôm nay:
7 trái xưa nay
thành 7 gia đình dẫu chưa giầu cũng không nỗi bần hàn; 24 cháu đứa sĩ quan, đứa
kĩ sư, đứa giáo viên, đứa đang học xin kính cáo tiền nhân được rõ.
Tuổi 92 mẫu thân
con vẫn khoẻ mạnh, tinh anh; Chồi lan quế 10 chắt cụ gái trai đầy đủ.
Dẫu còn nhỏ chẳng
thành “Vọng tộc danh gia” Cũng đã được trong làng ngoài huyện tin yêu ngưỡng mộ.
Gốc Tử phần tu
dựng Từ đường; Nơi Nghĩa địa đẹp mồ tiên tổ.
Tu sửa ngôi gia;
Chỉnh trang Phần mộ.
Mừng thay mọi
việc Lạc thành; Vui bấy sự hoàn tu bổ!
Nhớ người góp
công sửa chỗ đi về; Ghi người công đức xây nơi thờ tự.
Mộ phần tu chỉnh,
nghìn thu cựu tích tô bồi; Tự sở phong quang, năm Phái cơ ngơi minh lộ.
Gia sử chỉnh tu;
Phả đồ cập độ.
Nghe Chúc văn,
lưu công đức muôn đời; Dõi sơ đồ, rõ quế
hòe trăm nụ.
Sưu tầm tài liệu,
thi văn tuyển trạch, phụ lục dồi dào; Bổ túc di dung, thế thứ phân minh, Phái
Chi đầy đủ.
Đúng là:
Tu nhân, tích
đức, Phật đền cho; Khổ tứ, lao tâm, Trời chẳng phụ.
Trải lúc cơ trời
biến cải, dù buổi thái bình hay cơn binh lửa, sức âm phò quả đã vô cùng; Qua
tuần cuộc thế đổi thay, dù nơi đất khách hoặc chốn quê nhà, ơn mặc trợ mỗi ngày
mỗi tỏ.
Đất lành người
đảm, đời này sang đời nọ, thụ hưởng hồng ân;
Nhân tốt quả xinh, lớp trước tiếp lớp sau, đượm nhuần phúc thọ.
Dẫu đã hướng đi
lên; Còn muôn điều thách đố.
Khắp tứ phương:
xuôi, ngược, thị, thôn; Qua bách nghệ: sĩ, nông, công, trí.
Đường phấn đấu
chí quyết ắt thành; Nghiệp khoa cử đã thi là đỗ.
Nhớ lời xưa dạy: Uống nước
phải nhớ nguồn, hưởng trái thơm nhớ ơn người trồng; Yên vui đầm ấm
chẳng quên ngày cùng kiết.
Bởi thế cho nên: Nhân ngày Chính
kị, ngưỡng vọng Tôn linh, hiếu kính tỏ lòng; Gặp buổi thiên thời, nhớ thủa cơ
hàn, tâm thành bái biệt.
Toàn gia xin:
Sắm hương, nến,
trà, trầm, rượu, cau, trầu, quả hoa vâng đúng lệ xưa; Bầy muối, xôi, gạo, cá,
gà, canh, vàng, mã tuân theo tuần tiết.
Thắp nén tâm
nhang, lễ bạc lòng thành, cúi xin thấu biết.
Thành tâm kính
mời: Các chư Phật, Thần, Thánh, các bậc Tiên linh cùng Hiển khảo vong linh;
Kính thỉnh giáng lâm trước án, xét xoi chứng giám, cùng là nạp quyết.
Toàn gia nguyện: Rèn chữ Hiếu,
tích điều Liêm dạy con cháu mãi dõi
noi theo; Mở lòng Nhân, trồng cây Đức giữ nếp nhà vững bền niên
nguyệt.
Để luôn luôn:
Già mạnh khoẻ
bình an, lộc tài vượng tiến, sở cầu như nguyện, mọi việc hanh thông; Trẻ điều
lành sớm đến, điều dữ mau qua, thêm của thêm người, thẳng đường tiến bộ.
Bé bú mớm hay ăn
chóng lớn, luôn gặp vía lành; Người học hành mạnh khỏe chăm ngoan, đã thi là
đỗ.
Vâng theo lệ cũ:
Nhớ hiển khảo,
bát cơm, quả trứng, chén nước, nhành hoa; Thành tâm cầu Cha về trong vòng tay
thân thiết.
Văn khấn đôi
dòng; Tâm nhang một nén.
Lòng thành cầu
cho anh linh người an giấc ngàn thu; Tâm sáng mong sao gia sự bình yên bát
tiết.
Xóm làng ơn, mong
phù hộ giầu mạnh yên bình; Cháu con nhớ, quyết noi gương xây vững vàng nhiệt
huyết.
Hương tàn: vàng
mã áo quần, con xin thiêu hóa gửi xuống cõi âm; Lễ tạ: xôi, rượu, canh, thịt,
cháu con hưởng ân chung nhau đoàn kết.
Giãi tấm lòng
thành, Cúi xin minh triết.
-Cẩn cáo-
(Trưởng Nam Lương Đức Mến, cẩn soạn, Đại Hàn Giáp Ngọ, 01/ 2015)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!