Người phương Tây coi trọng ngày sinh còn người
phương Đông coi trọng ngày mất của tiền nhân và sùng kính các đấng Thần linh vì
họ cho rằng có linh hồn nên chú tâm việc thờ cúng, tế lễ. Song hiểu cặn kẽ về
việc này để làm đúng xem ra đâu phải dễ!
1. Từ sự Sùng bái và Niềm tin:
Cho đến nay, tôi chưa tìm thấy
tư liệu nào chỉ rõ việc Thờ, Cúng, Lễ, Bái chữ là Tế Lễ (H:祭禮, A: The cult and sacrifice, P: Le
culte et le sacrifice) hay Tế tự (H : 祭祀, A: The cult and sacrifice, P: Le
culte et sacrifice) được bắt đầu từ bao giờ, khởi nguồn từ đâu?. Nhưng trên
thế giới người ta đã chứng minh được rằng: Thời cổ đại, dân gian tin và
tôn xưng một con vật hay một vật thể, một hiện tượng thiên nhiên để thờ phụng,
đó là sự bái vật. Đây chính là ý nghĩa của từ “Totem”[1], một thuật ngữ có gốc từ
ngôn ngữ của người bản địa Châu Mỹ có nghĩa là “động vật, cây cỏ, đồ vật hoặc
hiện tượng tự nhiên mà tộc người nguyên thủy coi là biểu tượng thiêng liêng của
bộ tộc mình và tin rằng những thứ đó có mối liên hệ siêu tự nhiên và có sự gần
gũi máu thịt”[2].
Từ đó sinh ra tục thờ cúng.
Trên đất Việt Nam, Thủa
sơ khai, khi vừa thoát thai thời mông muội, cư dân còn ít, họ sống thưa
thớt trong các hang động ở vùng rừng núi trung du Bắc bộ ngày nay, giữa những cánh
rừng rậm, đầy hoang thú và luôn gặp thiên tai. Lúc đó những nhóm, bầy người
chưa quy tụ thành làng xóm nên còn sợ đủ thứ và khi gặp thú dữ, dông bão, sấm
sét, lũ lụt... họ chỉ biết bỏ chạy, phó mặc hay bái lạy cầu xin. Khi “may mắn”
thoát chết đã nẩy sinh ý niệm “bái vật”, sợ các “tinh”.
Rồi đêm ngủ trong cơn mộng,
họ gặp nhiều cảnh lạ, đôi khi thấy có người chết đi sống lại nên người ta tin rằng
con người có linh hồn và phần hồn thiêng là không chết. Hồn chỉ lìa khỏi xác,
nó ngay bên cạnh chỗ ở của người còn sống chỉ có điều không nhìn thấy được, nó
thuộc về Thế giới vô hình. Dân gian tin rằng: Hồn thiêng của kẻ ác có thể làm hại
người, còn Hồn thiêng của ông bà cha mẹ luôn bên cạnh, cảm thông và luôn giúp đỡ
kẻ còn sống nhất là giữa những người thân thích vượt hiểm, tránh họa, gặp may.
2. Tín ngưỡng thờ Đa Thần:
Từ việc tin có thế giới vô
hình, tin có yêu tinh, người xưa tin có thần biển, thần sông, thần suối, thần
núi, thần cây, thần bếp, thần đất, thần gió, thần mưa…Tin có Thần, người Việt
muốn an lành đã thờ nhiều Thần khác nhau. Khi chuyển từ săn bắn hái lượm, sống
trong hang động sang trồng cấy lúa nước ở trong lều lán, họ
đã đẩy một số con vật hiền lành gần gũi với cuộc sống như Chim, Rắn,...một số
cây cối như Đa, Lúa,...lên thành biểu trưng rồi phong Thần và tôn thờ. Chính vì
vậy, cho đến nay người Việt vẫn tin rằng tổ tiên người Việt thuộc “họ Hồng
Bàng” 鴻龐氏 (tức có nguồn gốc là một loài
chim nước lớn, lưng và cổ màu tro, cánh đen bụng trắng, mỏ dẹp, chân ngắn, khi
bay sắp thành hàng), thuộc giống “Rồng Tiên” 龍仙.
Khi chuyển khỏi cuốc sống
hang động, sống trong nhà quy tụ thành trại, xóm người Việt nhận thức được các
hiện tượng thiên nhiên, thời tiết, khí hậu, nhận ra ngày đêm...gợi cho họ tin
có một đấng cai quản vũ trụ. Họ gọi đấng tối cao đầy quyền lực ấy là “Ông Trời”.
Chính Ông nắm số phận con người trong tay, cai quản và sai phái đồ đệ là những
vị Thần gây họa, tạo phúc cho nhân gian. Từ đó sinh ra tục thờ “Trời”, cầu Trời
ban phúc lành cho ông bà cha mẹ, bản thân và con cháu. Việc “thờ Vật”, “thờ Thần”,
“thờ Trời” được để lại dấu ấn trên các hình vẽ ở trống Đồng. Chính việc thờ Thần
Mặt Trời và một số vật thiêng liêng khác có liên quan đến nông nghiệp, như: con
Cóc cầu mưa, con Nai cầu khô ráo, con Gà Trống đánh thức Mặt trời của người Việt
cổ là hạt giống đầu nẩy sinh tục Thờ cúng.
Sau này, khi đã hình
thành các làng, chạ dần tiến tới nước, trong những thủ lĩnh dạy dân làm
ăn, tổ chức chống muôn thú, thiên tai, địch họa có nhiều người đức cao, tài lớn
được nhân dân suy tôn và ngưỡng vọng, Khi họ chết dân gian đã tôn họ thành “Thần”,
thờ cúng họ đó là “Nhân Thần”. Mặt khác, nơi nào có con người sinh sống và được
tổ chức thành xã hội thì từ những hoạt động cộng đồng vui mừng tự phát ban đầu
dần hình thành những nghi thức, trong đó có nghi thức trong hoạt động “thờ” là
“Cúng, Tế”. Đồng thời, nghề nông cần nhiều nhân lực nên gia đình thường nhiều
con. Trong gia đình, Cha mẹ lúc sống là người chủ lực làm ra của cải nuôi sống
con cái nên con cháu thường kính hiếu để tỏ lòng biết ơn. Đến khi ông bà cha mẹ
chết đi, con cháu tin hồn thiêng các
ngài không chết vẫn ở gần mình nên con
cháu sùng bái hồn thiêng để tỏ lòng biết ơn mà còn mong hồn
cha mẹ khôn thiêng phù hộ cho.
Từ các tục “thờ Vật”, “thờ
Thần”, “thờ Trời”, “thờ Nhân Thần” và những hoạt động giải trí “tiêu hao sinh lực
thừa” xen thời gian hái lượm, săn bắn, trồng cấy dần hình thành tập tục, nghi
thức thờ cúng Tổ tiên. Như vậy, ngay từ thời kỳ nông nghiệp manh nha, trước khi
chịu ảnh hưởng của Văn hóa Trung Hoa và các Tôn giáo từ nước ngoài vào, dân Văn
Lang đã có tín ngưỡng, đó là việc tôn thờ ba loại quyền năng thiêng liêng:
“Thiên Thần” 天神, “Vật Thần” 物神[3] và “Nhân Thần” 人神[4] và sùng bái Tổ tiên.
Xã hội
Việt từ cổ đại đã tồn tại mối quan hệ xây dựng trên cơ sở huyết thống, tôn kính và biết ơn là những
tình cảm đặc biệt của người Việt xưa và
nay đối với Trời và Tổ Tiên. Từ đó hình
thành nên tục Thờ cúng và theo thời gian, thờ cúng tổ tiên trở thành mĩ tục,
một tín ngưỡng đặc trưng, thành tôn giáo gọi là “Đạo Hiếu”[5].
3. Hình thành và tồn tại của tập tục:
Sau buổi sơ sử mà tín ngưỡng
dân gian được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng Đa Thần 多神như đã lược thuật, dưới thời
Bắc thuộc, nước ta chịu ảnh hưởng của Nho giáo (H: 儒敎, A: Confucianism,
P: Confucianisme), Phật giáo
(H : 佛敎 , A: Buddhism, P: Bouddhisme)
và Lão giáo (H: 老敎, A: Taoism, P: Taoisme). Các
tôn giáo này đến nước ta qua những thời kỳ khác nhau và có ảnh hưởng khác nhau
đến việc hình thành, phát triển văn hóa Việt, tam hồn người Việt. Nho giáo chủ
trương trọng người chết như người sống[6] ảnh hưởng tới hành vi; Phật giáo
coi trọng Tứ ân (H: 四恩, A: The four favours, P: Les
quatre faveurs), trong đó có “Phụ mẫu ân” 父母恩 nhằm trợ duyên cho ông bà, cha mẹ tu tập theo Phật
cho vong linh được siêu thoát, tái sinh ảnh hưởng tới việc tu thân còn Lão giáo
thì ảnh hưởng tới lối sống người Việt lại mong người chết mau về với cõi Tiên,
cõi Trời. Chính giáo lý của các tôn giáo trên đã được những trí thức, giáo sĩ của
tôn giáo đó dùng giáo lý tôn giáo mình để lý giải niềm tin, tín ngưỡng, tập tục
dân gian Việt cổ. Theo thời gian, người Việt
chịu ảnh hưởng Phật Giáo về mặt tâm linh, chịu ảnh hưởng Nho Giáo về mặt luân lý giao tiếp xã hội,
chịu ảnh hưởng Lão Giáo về mặt lối sống và duy trì tín ngưỡng dân gian về mặt
mê tín dị đoan. Điều đó giúp người Việt càng tin vào sự trường tồn, linh thiêng
của Tổ tiên, Thần Phật.
Đạo này có từ khi Quốc Tổ Hùng Vương
雄王肇祖,tuy đã lập nước nhưng duy trì một nền hành chính tản quyền 散权制: Vua chia quyền, phong các
tộc trưởng làm Lạc Hầu, Lạc Tướng trực tiếp cai trị các tộc và lập điện Kính
Thiên 敬天殿 trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh tế
lễ Thần Trời và được củng cố khi Thục Phán dựng “Cột Đá Thề” trên núi ấy hứa
cúng giỗ các vua Hùng, thờ cúng Tổ Tiên và nó là đạo lý không thể xóa bỏ của
người Việt[7].
Dưới thời Phong
kiến tự chủ, triều trình đã chủ trương thống nhất, điển lệ hóa các
phong tục trong dân gian. Thời Lê Trung hưng (中興後黎朝, 1533–1789), trong Bộ luật Hồng Đức[8] tại điều 339 quy định “con cháu phải thờ cúng tổ tiên ông bà” và được các
triều đại sau duy trì. Nhưng việc tế lễ thờ phụng (H: 祭禮, A: The cult and sacrifice, P: Le culte et le sacrifice) vốn
được hình thành, bổ sung, hoàn thiện, lưu truyền trong lòng dân nên đương nhiên
có dị biệt từng vùng miền, dòng họ và theo thời gian. Song giống nhau ở mục
đích, tác dụng, nơi tiến hành. <
Trong
thời Cận
đại, trước biến cố của lịch sử, sự giằng xé văn hóa Đông-Tây, trong những đắm chìm của cơ cực, một bộ phận
tiến bộ trong tầng lớp sỹ phu Nho học cuối cùng của chế độ phong kiến thời kỳ
suy tàn đã đột nhiên thức tỉnh và hội nhập với thế giới hiện đại. Chính họ đã
là người khai sáng cái mới, chắt lọc cái cũ để thổi vào luồng sinh khí mới
trong đời sống tâm linh Việt, quyết tâm canh tân đất nước. Nhưng hiệu quả chưa
nhiều do chính quyền và người dân chưa mấy mặn mà.
Trong những
năm 1945-1985, do chiến tranh, loạn lạc, do ấu trĩ của thời cuộc mà vấn
đề này bị xem nhẹ, để lại hậu quả không ít trên nhiều mặt. Đặc biệt, có một vài
“Trí thức nửa vời”, các ông “quan cách mạng” nông cạn, học hành chắp vá lợi dụng
việc này kiếm lời hay tỏ ra thành kiến, bôi bác và kết án…, quá tả khi thực hiện
chủ trương “Bài phong đả thực”, coi một số “Thuần phong mĩ tục” thành “mê tín dị
đoan”. Vì thế có nơi, có lúc có người không dám thắp nhang, thờ cúng Tổ tiên;
Chùa chiền, nhà Thờ, Ðình, Miếu, Từ Ðường, bàn thờ trong tư gia bị dẹp bỏ…Nền Từ
đường họ tôi được chia cho dân, Chùa, Đình làng phá bỏ những năm 1960 trong
hoàn cảnh đó. Bởi thế việc Thờ, Cúng, Lễ, Bái vốn thiêng liêng, giầu giá trị
nhân văn bị hiểu lệch và làm sai trong thời gian dài. Song, đi từ tín ngưỡng
dân gian đến ảnh hưởng của tôn giáo, việc “Thờ Cúng, Tế Lễ” của người Việt có
quá trình hình thành, phát triển lâu dài, có chọn lọc, kế thừa vững chắc và với
người Việt, nhận thức và nghi thức đó đã trở thành “Lễ nghi phong hóa” (H: 禮儀風化, A: Ceremonies and manners, P: Cérémonies et moeurs) tức là
cách thức bày ra trong sự cúng tế cho được trật tự, trang nghiêm, kính cẩn đã
thành phong tục tạp quán của cả dân tộc. Đó là vấn đề Tâm linh (H: 心靈, A: The soul, P: L' âme), là điều thiêng liêng đã thấm vào
máu thịt, vẫn âm ỉ trong nhân gian chỉ chờ dịp là bùng lên tỏa sáng như bản chất
vốn có của nó.
Từ sau
1986 trở đi việc này đã được cải hiện và nhiều tập tục nhân văn đã được
phục hồi. Nhưng người hiểu rõ ý nghĩa và giá trị vấn đề thì ít, người hiểu thiếu
đầy đủ, lệch lạc, có thể coi thường nhưng cũng có khi thái quá lại lắm. Với những
người xa quê lâu ngày; ông, bà, cha, mẹ mất sớm, trước vốn khó khăn nay mới đủ
ăn… thì càng lơ mơ về ý nghĩa, giá trị và cách thức của các “Lễ nghi phong hóa”
thiêng liêng này. Khi “Phú quý sinh lễ nghĩa” 富貴生禮義 nhưng ít người thấu tỏ, chỉ bảo chân tình trong buổi “loạn thầy, bà”, lắm
người “bỗng dưng được Cô cho lộc”…lại thêm sách báo không thiếu điều nhảm nhí,
sao chép sai lạc đầy rẫy như hiện nay thì vấn đề Thờ, Cúng, Lễ, Bái dễ tạp
nham, không tạo được niềm tin vững chắc cho thế hệ trẻ.
Bên cạnh
đó, trong thời “kinh tế mở” đã xuất hiện ngày càng lắm người lợi dụng niềm
tin và sự hiểu biết thiếu căn bản nhưng lại hay bắt chước của đa số dân chúng
nên đã lái nhiều vấn đề “Tâm linh” (H: 心靈, A: The soul, P: L' âme) thành
“tín ngưỡng mù quáng” để trục lợi. Thực tế đã có những nghi thức vô nghĩa, những
đồ lễ ngoại lai…khiến cho việc Thờ, Cúng, Lễ, Bái trở nên bí hiểm, lắm thủ tục
nhiêu khê, tốn kém. Điều này vừa thiệt cho tín chủ vừa ảnh hưởng đến xung
quanh, đến xã hội!.
Do vậy,
việc thờ cúng, lễ bái đã được chắt lọc từ ngàn đời, được hấp thụ tinh hoa từ
các tôn giáo và lân bang trở thành một trong những Gia Bảo 家寶 tinh thần đáng quý của Tổ Tiên để lại mà lớp hậu sinh cần coi trọng, tất
nhiên có cải tiến cho phù hợp với thời đại. Ngoài thờ Tổ tiên (H: 祖宗, A: The ancestors, P: Les ancêtres) những người theo Phật
giáo hay không theo tôn giáo nào ở ta còn thờ Thần linh (H: 神靈, A: The spirits, P: Les esprits, các Đấng thiêng liêng trong thế
giới vô hình); thờ Phật (H: 佛, A: Buddha,
P: Bouddha); thờ Thổ công - Thổ địa - Thổ kỳ (H: 土公 - 土地 - 土祇, A: The
Genii of the home, P: Les Génies de la maison, ba vị Thần coi việc nhà cửa
trong mỗi gia đình, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân, nói nôm na là Ba vị Táo),
Thành hoàng làng[9] .
Như vậy,
có thể nói “Thờ Cúng Tế Lễ” hình thành cùng với sự có mặt của con người ngay từ
thuở sơ khai (trước cả tôn giáo) và sẽ còn hiện hữu, đồng hành chưa biết
tới bao giờ! Do vậy, muốn phục hồi, phát huy giá trị tốt đẹp vốn có của nó, từng
người, mỗi gia đình, dòng họ… cần có những hiểu biết nhất định sẽ vừa tránh mất
tiền, vừa tránh vô tình làm giảm giá trị truyền thống lại giúp ích được nhiều
cho bản thân, gia đình, cộng đồng trong cuộc sống, công việc.
-Lương Đức Mến, mùa Vu Lan Giáp Ngọ 2014-
[1] Thuật ngữ này vốn từ người Ojibways 奥杰拜 ở Bắc Mĩ với ý nghĩa là “huyết thống của tôi”,
“chủng tộc”, tương tự từ “Kabang” 科旁 của
thổ dân ở Australia. Con người đem động vật, thực vật, những vật tự nhiên hoặc
hiện tượng tự nhiên dẫn làm “thân tộc”, tin tưởng vào đối tượng sùng bái, xem
đó như là tổ tiên của mình. Totem là đối tượng sùng bái, lại có thể lấy làm
danh xưng, huy hiệu hoặc tiêu chí của tộc, đồng thời cũng là vị thần bảo hộ của
bản tộc, “Totem giáo” 圖騰敎 .
[2] "Từ điển tiếng
Việt" của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia do Nguyễn Kim
Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương biên soạn (Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2005).
[3] Một điển hình của tục thờ Thần thờ Vật là tục thờ Mặt Trời, tế
Trời của triều đình. Mặt Trời được coi như một Thần quyền thiêng liêng, một
thiên thần có nhiều quyền năng: ban cho ánh sáng và hơi nóng, ban sinh khí nuôi
sống muôn loài, từ con người đến muông thú cây cỏ. Hình ảnh này còn lưu trên
mặt trống đồng, coi như chứng tích văn hóa cổ đại của dân tộc Việt Nam. Một số
con vật được coi như đã giúp cho nông nghiệp, có liên quan đến thời tiết nắng
mưa được tôn thờ. Ví dụ: mỗi khi thấy cóc nghiến răng kêu thì trời chuyển mưa
nên tôn là “cậu ông Tròi” có quyền hô mưa hay khi thấy con gà trống gáy sáng là
mặt Trời mọc nên coi như Gà Trống có quyền năng làm cho mặt trời mọc lên đem sự
sống đến cho muôn loài.
[4] Có ba bậc Nhân thần thuộc ba phạm vi khác nhau trong cộng đồng:
- Toàn thể
dân tộc, có : Quốc Tổ Hùng Vương; các vị anh hùng dân tộc, như : Hai
Bà Trưng, đức Trần Hưng Đạo, vua Lê Lợi, vua Quang Trung..., các công thần danh
tướng như Phạm Ngũ Lão, Lê Lai,...
- Địa
phương, có Thần hoàng làng thờ ở đình làng là người có công đầu với dân làng
như khai hoang lập ấp, dạy nghề sinh sống cho mọi cư dân, cứu đói năm có thiên
tai mất mùa... Dân làng tôn xưng vị ân nhân và được triều đình nhà vua ban sắc
phong về làng để thờ, gọi là thủ tục phong thần.
- Gia tộc,
có tổ tiên được con cháu thờ ở nhà thờ do ông tộc trưởng chăm nom lo việc cúng
lễ ngày tết và ngày giỗ. Có họ to đông con cháu ở xa nhau còn có nhà thờ từng
chi hay từng gia đình để thuận tiện việc thờ cúng gia tiên.
[5] “Tôn giáo” này không có giáo lý và giáo
hội chặt chẽ ngoài gia đình và gia tộc . Nhưng đó là niềm tin sâu sắc vào sự
thiêng liêng; sự hướng thượng của đời sống tâm linh con người và giáo lý “uống
nước nhớ nguồn”.
[6] Nguyên văn “kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở
thân, sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí giã 敬其所尊, 愛其所親, 事死如事生, 事亡如事存, 孝之至也”.
Tức là “Kính người trên, thương người thân, thờ người chết như người còn sống,
trọng người đã khuất như người hãy còn. Đó là trọn hiếu vậy!”
[7] Ngay cả những tôn giáo bài xích thờ cúng
tổ tiên, nhưng để có chân đứng trên mảnh đất Việt Nam, cũng phải thừa nhận và
cho phép sự thờ cúng vô cùng thiêng liêng này.
[8] Chính xác và đầy đủ thì đó là bộ Quốc
triều hình luật gồm 13 Chương với 722 điều.được ban bố lần đầu tiên trong
khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497).
[9] Thần Thành hoàng là một vị
Phúc Thần trên cõi thiêng của làng ở ngay địa phương đó, có ba hạng:
- “Thượng
đẳng thần” là những bậc thiên thần có sự tích linh dị không rõ tung tích còn
gọi là Thiên thần. Hoặc các có họ tên, lịch triều từng có đại công lao khi mất
đi được nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công
đức mà thờ; Ví dụ: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...
- “Trung
đẳng thần” là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công
trạng hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh
vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ có ứng nghiệm được triều đình cũng liệt
vào tự điển mà phong.
- “Hạ đẳng
thần” do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về
bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong.
Mâm cơm cúng PHẢI CÓ CON GÀ:
Trả lờiXóaThường cỗ giỗ, trước hết có một con gà trống chưa đạp mái, xếp cánh tiên, sau khi cúng sẽ xem chân gà để đoán điềm hay dở. Sau đó chặt ra đĩa thịt gà luộc lá chanh. Có nhà chặt ra thành đĩa để cúng chứ không cúng gà luộc để nguyên con.
Dùng Gà làm lễ vật bởi Gà là con vật thân thiện, được thuần hóa từ thời con người còn “ăn hang ở lỗ” nên có thể thay mặt chủ nhân đi “hầu” đối tượng cúng.
Mặt khác, trong tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ thì Mặt Trời là đấng Thiêng liêng có quyền năng tối thượng đem lại ánh sáng, sự sống cho nhân gian và chúng sinh mà Gà Trống lại có quyền năng “đánh thức” ông Mặt Trời dậy nên Gà Trống được coi trọng cũng như Con Cóc được tin là có quyền “nghiến răng” gọi trời mưa!