So
với trong họ, tôi là người được học hành cơ bản, rảnh thời gian, đi lắm nên đọc
được nhiều, va chạm khối chuyện, tích cóp khối kinh nghiệm. Đã đến lúc tập hợp,
biên soạn lại để dùng khi cần và con cháu, anh em trong họ tham khảo.
Hoạt
động nghi thức của con người, theo Lễ
kinh 禮經 gói trong 4 chữ: Quan (冠, phép tắc cư xử giữa mọi người trong xã hội),
Hôn (婚, nghi lễ thành gia lập thất, duy trì lễ pháp tông đường), Tang (喪, nghi lễ kết thúc chu trình vòng đời một con người) Tế (祭, nghi lễ tôn thiên kính địa, lễ bái tiền nhân, tổ tiên của dòng họ).
Đó là một phần trong thực hành Tín ngưỡng
(H: 信仰, A: The religious belief, P:
La croyance religieuse), thể hiện niềm
tin thiêng liêng, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái “siêu nhiên” 超然, đối lập với cái “trần tục”
塵俗, cái hiện hữu. Đó là một nét đẹp rất nhân văn của xã hội hiện đại có
dân chủ thực sự và nhờ tín ngưỡng, con người được tôn vinh, cuộc sống thêm đẹp
đẽ, quan hệ với nhau thêm thân thiện[1].
Trong
đó những điều về ứng xử trong gia đình. Về việc này, chương “Vi chính” 為政第二 sách Luận Ngữ 論語 có viết: “生, 事之以禮. 死, 葬之以禮, 祭之以禮” (“sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ; tế, chi dĩ lễ”) có nghĩa
là: Khi cha mẹ sống thì theo lễ mà phụng sự cha mẹ, khi cha mẹ chết thì theo lễ
mà an táng, khi cúng tế cũng phải theo đúng lễ. Cổ nhân có câu: “Thiên kinh vạn
điển, hiếu nghĩa vi tiên” 千經萬典孝義為先. “Hiếu kính” 孝敬 với cha mẹ là phải tận tâm
chăm sóc và vâng lời.
Với
người Việt, “Hiếu” 孝 trở thành lẽ sống, “Đạo hiếu”
(H: 孝道, A: The duty of filial piety,
P: Le devoir de la piété filiale) hay
“Hiếu thân” (H: 孝親, A: The filial piety, P: La piété filiale), là “Hiếu hậu vi tiên”
孝厚為先, “Hiếu đức trung nhân” 孝德忠仁. Hết lòng hiếu thảo với cha mẹ phải làm trước
hết và ông cha ta rất coi trọng chữ hiếu coi đó là nền tảng của trật tự xã hội,
cách ứng xử của mọi người. Một gia đình có con hiếu, cháu hiền 孝子賢孫 là gia đình hạnh phúc, hưng
long; đạt Tam đa (H: 三多, A: Three abundances, P: Trois
abondances) cả Phúc 福, Lộc 祿, Thọ 夀.
Người
ta, ai cũng được mẹ cha sinh ra, nuôi dưỡng, dạy dỗ. Kinh Thi có câu: 父兮生我, 母兮鞠我, 哀哀父母生我劬勞, 欲報深恩, 昊天罔極 nghĩa là: Cha thì sinh ta,
mẹ thì nuôi ta, thương thay cha mẹ sinh ta nuôi dưỡng khó nhọc, muốn báo ơn
sâu, ơn đức của cha mẹ mênh mông như bầu Trời bằng “Chín chữ cù lao” 劬勞九字, tức là chín điều khó nhọc khi sinh dưỡng
con cái[2].
Trong Phật giáo còn nói đến Tứ ân (H:
四恩, A: The four favours, P: Les quatre faveurs), trong đó có “ơn cha mẹ”. Do vậy phải
báo đáp bằng sự cung kính, vâng lời, phụng dưỡng để cha mẹ vui; khi cha mẹ mất
thì phải lo tang lễ chu đáo, phải thờ cúng và cầu cho cha mẹ mau siêu thăng tịnh
độ 超升淨土 về miền cực lạc (H: 極樂涅槃, A: Nirvana,
P: Nirvana) nơi Niết bàn.
Mỗi
việc như vậy đều cần được tiến hành chu đáo, có trật tự theo Nghi thức (H: 儀式, A: The protocol, P: Le protocole)
chuẩn mực. Thời cổ, Chu Công 周公[3] soạn sách
Chu lễ 周禮, Nghi lễ 儀禮ghi lại các qui định hoạt động
xã hội vào thời nhà Chu (周朝, 1122 –249 tCn). Sách này cùng với Lễ ký 禮記 do học trò Đức Khổng Tử chép
lại lời thầy dạy về Lễ, Nhạc cùng với gọi là Tam Lễ 三澧[4] bàn về các chi tiết và ý
nghĩa của lễ Quan (lễ trưởng thành),
Hôn (lễ cưới), Tang (lễ tang) và Tế (cúng bái).
Lịch
sử đã chứng minh rằng: trên cơ sở nền văn hoá Đông Sơn (mang tên địa điểm
phát hiện di chỉ ở Thanh Hóa)[5], nhu cầu trị thủy và đấu
tranh chống xâm lăng đã hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang 文郎 đầu tiên của người Việt đóng đô
ở Phong Châu và
nền văn minh lúa nước, văn hóa làng xã trở thành cốt lõi văn hóa Việt. Ban
đầu, trong đời sống tâm linh, người Việt cổ có tục thờ đa thần của văn hóa bản
địa sau lại tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ân Độ[6],
đặc biệt là văn hóa Hoa Hạ 華夏 nên nước ta là nước đa tôn
giáo. Từ thế kỷ X trong xã hội xuất hiện hiện tượng Tam giáo đồng nguyên (H: 三敎同原, A: Three religions was originated from the same source, P: Trois religions sont provenues de même
source), là: Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo[7]
nên người Việt có khá nhiều tục lệ. Tuy có những giai đoạn thăng trầm khác nhau
nhưng Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc và trên nền tảng tư tưởng của Phật
giáo, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bản địa, nhiều nghi lễ là
sự kết hợp giữa Phật giáo nguyên thủy và truyền thống dân tộc. Do vậy các nghi
thức việc Hiếu cũng ảnh hưởng của Phật giáo. Trong đó có tục về việc tổ chức Mừng
Thọ, Tang lễ và Cúng giỗ cha mẹ sao cho trọn vẹn. Việc này tồn tại từ bao đời;
những yếu tố ngoại nhập hòa trộn với văn hóa bản địa đã trở thành “Lễ nghi
phong hóa” (H: 禮儀風化, A: Ceremonies and manners,
P: Cérémonies et moeurs) tức là cách
thức bày ra trong khi tiến hành sao cho được trật tự, trang nghiêm, kính cẩn.
Thời
Bắc thuộc đã đành, thời tự chủ chúng ta cũng chưa có mấy sách viết về nghi lễ. Nhưng
sách của Bắc quốc với nhiều quy chế cổ trong Tam lễ đã dẫn ở trên phức tạp, khó
thực hiện; gây phiền nhiễu nên dân chúng thực hiện tùy hoàn cảnh và thiếu thống
nhất ngay trong từng gia đình, làng xã. Trong khi triều đình lại muốn chuẩn hóa
quy chế các nghi lễ theo quan điểm của
Nho giáo (H: 儒敎, A: Confucianism, P: Confucianisme) nên một số nhà nho biên
soạn ra sách “Gia lễ” để áp dụng, như: Thượng thư Gia lễ 家禮của Đông các Học sĩ 東閣學士Thượng thư 尚書Duệ Quận công 睿郡公Hồ Sĩ Dương (胡嘉杨, 1621 - 1681)[8]
, Gia
lễ tiệp kính của Ngô Doãn hay Thanh
thuận Gia lễ[9]
của Bảng nhãn 榜 眼Thượng thư bộ Công 工部 尚書Lê Quý Đôn (黎貴惇, 1726 - 1784)[10],...
nhưng vẫn chưa thống nhất và còn khó hiểu, khó áp dụng bởi ít được “Việt hóa”.
Trước tình hình ấy, Thọ Mai cư sĩ 壽梅居士Hồ Sĩ Tân 胡嘉賓[11] đã biên soạn cuốn Thọ mai Gia lễ 壽梅家禮[12]. Sách này chú ý tham khảo,
vận dụng Chu lễ và Gia lễ của tiền nhân nên có tiến bộ so với các tập sách trước
nó, dễ hiểu, gần gũi với phong tục tập quán hơn nên nó nhanh chóng được dân
gian tiếp nhận và lưu truyền. Nhưng Thọ Mai gia lễ từng bị Phạm Đình Hổ (范廷琥, 1768-1839)[13]
đả kích kịch liệt vì cho rằng đã đưa ra những cách thức lạ kỳ, quê kệch...Song
trong dân gian vẫn lưu truyền và dưới triều Nguyễn, Thọ Mai Gia lễ được sử dụng
như là luật lệ về tang ma.
Thời
cận đại, có Phan Kế Bính[14],
năm 1915 soạn ra cuốn Việt Nam phong tục
nghiên cứu nghiêm túc, có tính phản biện về thuần phong mỹ tục của Việt Nam[15].
Những
năm 1945-1975, tất cả tiềm lực, tinh hoa đều dồn sức cho công cuộc kháng chiến,
kiến quốc, đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước; cuộc sống gian khó nên có
thời gian “việc Hiếu” bị hiểu lầm và sao nhãng. Đã một thời chúng ta ngộ nhận đó
là “tàn dư” của phong kiến, cần phải “đào tận gốc, trốc tận rễ”; rất ít bài
báo, sách viết về chủ đề này. Hậu quả để lại là “khoảng trống Bạch cầu” trên
nhiều mặt.
Từ
sau khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986),
mọi mặt KT-CT-XH nước ta đều phát triển theo chiều hướng tích cực thì việc Hiếu
mới được khơi dậy và ngày càng được quan tâm hơn. Nhiều vấn đề dần được “luật
hóa”. Trách nhiệm con cái với cha mẹ, ông bà được đề cập ngay từ đạo luật hôn
nhân và gia đình đầu tiên của nước ta là Luật
hôn nhân gia đình được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Khóa I, kỳ họp
thứ 11 thông qua trong phiên họp ngày 29/12/1959 và hiện nay là Luật hôn nhân gia đình được Quốc hội nước
Cùng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09/6/2000.
Việc Chúc thọ, Mừng thọ người cao tuổi quy định trong Luật Người cao tuổi được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Khoá XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23/11/2009 (thay thế Pháp lệnh Người cao tuổi số 23/2000/PL-UBTVQH10) và các
văn bản hướng dẫn kèm theo. Về tang lễ có Nghị
định Số: 105/2012/NĐ-CP ngày 17/12/2012 của Chính phủ Về tổ chức lễ tang
cán bộ, công chức, viên chức. Mới đây, thực hiện Chỉ thị 27-CT/TW của Bộ Chính
trị và Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, ngày 21/01/2011 Bộ VH-TT&DL đã ban hành Thông tư 04/2011/TT-BVHTTDL quy định về
thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội...
Nhưng
dân ta vốn nặng tư tưởng lệ cổ nên cái mới chưa thành nếp. Trong số những lệ tục
xưa, theo thời gian và do thời cuộc, có cái nay đã đi vào quên lãng, không còn
phù hợp. Tất nhiên những lệ đã trở thành “Thuần phong mỹ tục” thì vẫn được duy
trì cho phù hợp hơn. Đáng tiếc, do mặt trái của cơ chế thị trường, do điều kiện
kinh tế phát triển nhưng một số mặt VHXH lại có biểu hiện không theo kịp nên xuất
hiện nhiều lệ mới kiểu “Phú quý sinh lễ nghĩa” mà không phú quý cũng đua đòi,
nhân danh “Thọ Mai Gia Lễ” phục hồi làm biến dạng nhiều tục cũ. Đặc biệt gần
đây xuất hiện khá nhiều sách, tài liệu đều nói là dựa theo truyền thống có cải
biên nhưng xem ra chỉ là sao chép lẫn nhau[16]
và nhiều chỗ rất lạc hậu, sai lầm ngớ ngẩn.
Mỗi
hoạt động tâm linh trong việc Hiếu thường nhiều nghi lễ, tập tục nhưng đa phần
khi thực hiện chỉ là “làm theo” mà không hiểu vì sao cần làm như thế nên dẫn tới
bị thô lược hay lạm dụng, hoặc làm sai lệch, không còn ý nghĩa gì. Từng dự, tổ
chức và được nhờ “cố vấn” nhiều đám Cưới hỏi, Chúc thọ, Mừng lên chức, Cúng giỗ,
đưa tang...tôi thấy bên cạnh những cái hay, cái được mà mình thấy đúng nghi lễ
đã biết; cái mới, cái lạ cần học, tiếp thu tôi còn thấy nhiều việc làm trái
khoáy, chướng mắt, tốn kém, phiền hà mà hỏi ra thì chả ai rõ ngọn ngành, trả lời
vu vơ hoặc rất chi là phản khoa học, phản cả tâm linh. Tât cả do thiếu hiểu biết,
thiếu tri thức mà ra!
Theo
tôi, người có tâm, có tri thức, có bản lĩnh không hành động a dua theo đám
đông, hầu tránh gánh nặng không đáng có; tránh những tín điều lầm lạc, ngu muội.
Trước mỗi lễ nghi, phong tục, tập quán ta cần có ý thức tìm hiểu nguyên nhân
sâu xa để rõ ý nghĩa tâm linh, cơ sở khoa học, thực tiễn của hành vi cần phải
thực hiện. Điều đó vừa giữ được truyền thống của ông cha, của “nếp nhà” vừa là
một hành vi văn hóa, khiến cuộc sống thêm thi vị đúng với nghĩa cuộc sống của
con người.
Chắt
lọc tinh hoa của tiền nhân, dựa vào các văn bản quy phạm hiện hành và qua
thực tế, tôi chọn lựa những nội dung cần thiết có phân tích, lược bỏ những điều
rõ là lỗi thời, thêm những lệ tục mới đẹp, phù hợp đảm bảo tính dân tộc, lại có
nội dung Văn hóa mới biên soạn lại. Mục đích để nhớ và phổ biến, thực hiện
trong gia tộc, bạn bè thân hữu nhằm “Gia sự hà tất vấn ngoại nhân” 家事何必問外人 mà có hỏi thì cũng có cơ sở
cân nhắc, xem xét trước khi áp dụng. Tất cả có 5 phần:
Phần
1: VIỆC HIẾU VÀ CƠ SỞ TRIẾT HỌC, TÂM
LINH CỦA VIỆC HIẾU
Phần
2: THỌ VÀ VIỆC CHÚC THỌ
Phần
3: KHI NGƯỜI THÂN MẤT VÀ TANG LỄ
Phần
4: VIỆC CÚNG GIỖ CHA, MẸ, ÔNG, BÀ, NGƯỜI
THÂN
Phần
5: MỘT SỐ BÀI KHẤN TẾ, ĐIẾU, THƠ ĐÃ SOẠN
Mỗi
phần nhiều nội dung, gồm cả quan niệm xưa, cơ sở tâm linh, triết học cổ của nó;
việc thực thi trong cuộc sống đã gặp; các quy định hiện hành và nhận xét, quan
điểm của bản thân[17].
Do vậy nó gần như cuốn Từ điển (H詞典, A: The dictionary, P: Le
dictionnaire) hay Cẩm nang (H: 錦囊, A: Tips, P: Conseils) cho người không mấy am tường lễ
tục thực thi việc báo hiếu, đặc biệt là trong Mừng Thọ, Tang lễ, Thờ cúng...Nhằm
soạn riêng cho bản thân và gia tộc, không phải là “công trình nghiên cứu” theo
đơn đặt hàng, lấy tiếng hay tư lợi gì nên không ghi chú nguồn tham khảo cụ thể
theo đúng chế độ “bản quyền” của Công ước Bơn (Berne Convention, 伯尔尼公约) về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ký tại Bern (Thụy Sĩ) năm 1886. Những chữ nước ngoài
(nhiều nhất là Hán tự) tôi copy rồi
paste vào hoặc gõ trực tiếp để ôn, nhớ, tiện tra cứu (chứ không phải vì “sính ngoại”) và không ảnh hưởng đến nội dung với
người đọc không biết ngoại ngữ.
Tâm nguyện thế nhưng chắc còn nhiều
điều chưa biết hết hay chưa thể đề cập được. Mong những ai quan tâm, có hiểu biết
và có tâm đọc được trang này góp ý bổ sung, chỉ giáo thêm về ý tưởng, nội dung
cũng như tư liệu.
Xin chân thành cảm ơn.
-Tháng 7/2014, Lương Đức Mến-
[1] Tất nhiên, khi con người bị
tầm thường hóa bởi những khát vọng vật
chất, bởi sự bon chen, giành giật hoặc cầu xin khẩn khoản tệ hơn là
tranh đoạt thô bạo thì cái tín ngưỡng ấy không đáng để tôn vinh.
[2] Chín chữ cù lao gồm: -
SINH (生,
mang thai, đẻ ra) - CÚC (鞠, Nuôi dưỡng, chăm nom cả vật chất lẫn tinh thần) - PHỦ (拊, Âu
yếm, nâng niu, vuốt ve) - SÚC (蓄, Cho bú mớm, bón cháo cơm) - TRƯỞNG (長, nuôi
cho đến khôn lớn) - DỤC (育, Dạy dỗ, tập tành) - CỐ (顧, Chăm nom, thương nhớ, đoái hoài)
- PHỤC (復
, Uốn nắn, dạy dỗ) - PHÚC (腹, Ẵm vào lòng, giữ gìn, đùm bọc, che chở).
[3] Tên thật là Cơ Đán, là
công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử
Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ Vương (Cơ
Phát) lập ra nhà Chu (1122 - 256 trước
Công nguyên), giành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương.
[4] Chu lễ 周禮/周礼
còn gọi là Chu quan 周官 hoặc Chu quan kinh 周官经, là tên gọi của bộ sách xuất hiện vào
thời Chiến Quốc ghi chép về chế độ quan lại cùng những tập tục lễ nghi của đời
Chu, có thể coi là một lý tưởng về chế độ chính trị và chức trách của bách
quan.
[5] Là một nền văn hóa cổ ở Thời
đại đồ sắt, từng tồn tại ở một số tỉnh miền bắc Việt Nam
và bắc trung bộ Việt Nam
(700 tCn - 100)
[6] Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại (còn được gọi là Văn hóa Harappa, 3.000-1.800
tCn) là một nền văn minh nổi tiếng bao gồm cả vùng đất ở các nước như: Ấn Độ,
Pakistan, Nêpan, Bangladesh ngày nay. Nền văn minh này sản sinh ra chữ Ấn cổ,
chữ Brami, chữ Sanskrit (là cơ sở của nhiều
loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này) và sản sinh ra nhiều tôn giáo
như Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jaina và đạo Sikh.
[7] Trong một phạm vị lịch sử nhất định, Tam giáo có tạm thời thay thế nhau
giữ vai trò hàng đầu, trở thành Quốc giáo nhưng trong đời sống xã hội và sinh
hoạt tâm linh, tình cảm, Tam giáo vẫn là ba mà một (Trinity) ảnh hưởng nếp ăn ở tư duy của cộng đồng người Việt, hòa điệu với
tập tục, bản sắc riêng của văn hóa bản địa VN. Cái vạc ba chân là cái thế vững chắc cho tâm hồn, đỡ nâng và dẫn dắt cuộc
sống trong các mối quan hệ ràng buộc cá
nhân - gia đình - xã hội - quốc gia.
[8] Hồ Sĩ Dương là quan nhà Lê trung hưng trong lịch
sử Việt Nam, người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Ông
là cháu xa của Trạng nguyên Hồ Tông Thốc 胡宗簇.
[9] Hai cuốn Gia lễ này tôi chưa được biết, chỉ được
đọc trong sách của Hoàng Công Tuấn..
[10] tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu (允厚), hiệu Quế Đường; làng Diên Hà, huyện
Diên Hà, trấn Sơn Nam; nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Đỗ
Bảng nhãn khóa thi Nhâm Thân, 1752, được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm dần lên
đến Thượng thư bộ Công. .là quan thời Lê
trung hưng, là nhà thơ, và là "bác học lớn của Việt Nam trong thời phong
kiến". Ông là tác giả nhiều: Các sách bàn giảng về kinh, truyện; Các sách
khảo cứu về cổ thư; Các sách sưu tập thi văn; sách khảo về sử ký địa lý đến nay
còn giá trị và nhiều tập thơ văn.
[11] Hồ Sĩ Tân (1691-1760)
là con trai thứ hai Tham nhị Hồ Sĩ Tông (con
ruột Duệ Quận Công Hồ Sĩ Dương). Năm Gíap Ngọ, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ mười
(1714), Sĩ Tân dự thi Hương đậu ngay
Giám sinh (Cử nhân); năm ất Mùi (1715) thi Hội đậu Phó bảng. Mùa xuân
Nhâm Dần niên hiệu Bảo Thái thứ ba (1722)
đời Lê Dụ Tông, Sĩ Tân dự thi Đình đậu Tiến sĩ. Bước đầu Sĩ Tân nhận chức Công
khoa Cấp sự trung, sau được bổ nhiệm chức Gíam sát Ngự sứ đạo Quảng Yên, rồi
thăng Hiến Sát sứ tỉnh Thanh Hóa. Trong khi làm quan ông thường bênh vực người
nghèo khó và kẻ thất thế, thẳng tay trừng trị bọn tham quan ô lại , nên không
được cấp trên mến phục, lại bị đồng sự chèn ép, ông xin về hưu .
[12] Trước đây
do viết và in bởi Hán tự nên sách ít phổ biến, mọi người chỉ truyền khẩu
nên dễ tam sao thất bản. Ngay như tôi mãi năm 2001 mới kiếm được cuốn dạng
Photocoppy mà sau này kiểm lại thấy nó không đúng về bố cục, chi
tiết so với bản có trên mạng và được giới thiệu là dịch năm 1927.
[13] Tên chữ là
Tùng Niên 松年, Bỉnh Trực 秉直, hiệu: Đông Dã Tiều 東野樵, tục gọi là Chiêu Hổ; người làng Đan
Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là nhà nghiên cứu
văn hóa, nhà văn và nhà thơ của Việt Nam ở khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ
19. Tế tửu Quốc Tử Giám Thị giảng học sĩ. Và nhờ đọc nhiều, đi nhiều, ông đã để
lại nhiều công trình khảo cứu, biên soạn có giá trị thuôc đủ mọi lĩnh vực: văn
học, triết học, lịch sử, địa lý,... Đồng thời sáng tác nhiều tập ký, thơ có giá
trị. Đặc biệt là Vũ trung tùy bút (雨中隨筆, Tùy bút trong mưa) là một tập truyện bằng
chữ Hán, theo thể loại ký nổi tiếng tại Việt Nam.
[14] Phan Kế Bính (1875
– 1921), quê ở làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phố Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội),
hiệu là Bưu Văn, bút hiệu Liên Hồ Tử, là một nhà báo, nhà văn nổi tiếng hồi đó.
[15] Khi tiếp xúc với văn minh Phương Tây ông nhận ra:
Kinh tế thay đổi thì phong tục phải thay đổi nên đã viết nhiều bài ngắn đăng từng
kỳ trên Đông Dương Tạp Chí, vào năm 1913 – 1914. Sau đó tập hợp thành sách
“Việt Nam phong tục. Cuốn này năm 2005 tôi mới mua được. Xem kỹ thì ra,
chính trong cuốn sách này ông cũng chỉ ra những điều giả dối, phiền
phức lố bịch trong nghi thức tang ma đương thời.
[16] Bản thân tôi từng đi mua sách vớ phải những nội
dung sai của...chính mình! Ví dụ cuốn “Tìm hiểu văn hóa tâm linh của người Việt”
tác giả GsTs Cao Ngọc Lân, NCS Cao Vũ Minh-NXB Lao động xuất bản 2013 tại T38,
39, 40, 41 (Đôi điều về Bát hương) giống hệt (có đổi vài chữ nhưng phần mang
tính “duy tâm” tôi nghe thầy tôi truyền lại vẫn giữ nguyên!) bài tôi đăng từ
02/02/2011 ở: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2011/02/bat-huong-viec-boc-bat-huong-va-su-dung.html. Hay các ảnh minh họa, bảng tôi tự thiết
kế và ngày 10/02/2011 đưa lên tại http://holuongduclaocai.blogspot.com/2011/02/so-o-cam-nen-mau-va-chu-viet-tren-bai.html đã được 2 tác giả trên ưu ái sao lại ở T
180, 181 (chắc cóp sau khi tôi sửa ngày 14/02/2011) mà lẽ ra bảng chỉ gõ trực
tiếp cũng được!
[17] Là người 40 năm trong LLVT, học Đại học trong Quân đội, công
tác trong Công an, là Bác sĩ lãnh đạo đơn vị thực hiện công tác khoa học kỹ thuật
trong CAND tất nhiên là tôi không mê tín. Nhưng tôi có niềm tin, tin vào tâm
linh. Đồng thời tuy không theo tôn giáo nào, những ảnh hưởng của gia đình và
quê hương nên trong tâm tưởng có cái nhìn qua lăng kính một “Thiện nam tín nữ”
(H: 善男信女, A: The believers, P: Les croyants) của Đạo Phật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!