Với người Việt,
có những quy định về cúng giỗ, cưới xin liên quan đến quan hệ trong tộc họ, đặc
biệt mối quan hệ trong vòng 5 đời mà không phải ai cũng thấu tỏ. Đây không chỉ
là yếu tố tâm linh, đạo lý mà còn là thuần phong mỹ tục, là vấn đề khoa học và
pháp lý.
1. Hệ thống tôn ti trong gia tộc:
Do ảnh hưởng của
Nho giáo mà ở Việt nam, hệ thống tôn ti 倫序 trong gia tộc được cổ nhân phân
biệt rất chi li trong 9 thế hệ gọi là Cửu đại 九族 hay Cửu huyền 九玄, gồm: cao 高, tằng 曾, tổ 祖, cha 父, MÌNH 我, con 子, cháu 孫, chắt 曾孫, chút 玄孫. Cụ thể:
TRÊN MÌNH
|
MÌNH
|
DƯỚI MÌNH
|
||||||
Kỵ
暨
|
Cụ
具
|
Ông
翁
|
Cha
吒
|
Tôi
命
|
Con
昆
|
Cháu
𡥙
|
Chắt
𡦫
|
Chút
拙
|
Cao tổ
高祖
|
Tằng tổ
曾祖
|
Tổ
祖
|
Phụ
父
|
Ngã
我
|
Tử
子
|
Tôn
孫
|
Tằng tôn
曾孫
|
Huyền tôn
玄孫
|
Great-great-grandfather
|
Great-grandfather
|
Grandfather
|
Father
|
I
|
Child
|
Grandchild
|
Great-grandchild
|
Great-great-grandchild
|
Theo đó, trật tự
ngôi thứ 倫序 của người Việt trên ta hai đời là đời Ông (Hán: 上第二世爲祖, Nôm: 𠁀次𠄩𨕭 命 羅𠁀 翁) , dưới ta hai
đời là đời cháu (H: 下 第 二 世 爲 孫, N: 𠁀次𠄩𠁑命 羅𠁀 𡥙) và từ mình ngược lên 4 đời (tức đến đời Kỵ 高祖) là thân thuộc, hiểu tương đối rõ. Đấy là
5 đời 五代[1]
gần
gũi, hay được xưng, hô trong việc họ.
Song nay ít người
nắm chắc được vấn đề xưng hô đó nên dễ nhầm, đặc biệt nếu sính dùng chữ và sao
chép văn bản để lại của tiền nhân một cách máy móc.
Nếu người chép
Gia phả hay đề chữ trên Bia mộ hoặc bản Khấn cúng (chữ Hán hay chữ Quốc ngữ, âm Hán Việt hoặc âm Nôm) ghi Cụ mình là
Tằng Tổ khảo, ghi Ông nội là Tổ khảo, ghi Bố là Hiển khảo…thì đúng ra đến đời
con mình phải nâng lên thành: Cao tổ khảo, Tằng Tổ khảo, Tổ khảo; đến cháu mình
nâng thành: Cao Tằng tổ khảo, Cao tổ
khảo, Tằng Tổ khảo;… đời chắt, chút, chít mình nâng nữa (Huyền, Viễn…?) dần bí từ!…Nhưng ở các thế hệ sau này nếu con cháu
mình không hiểu, khi Tục biên, bổ sung Gia phả hay khấn cúng cứ chép lại nguyên
văn như bản “mình” cộng thêm các bản “con cháu mình” đã soạn thì sẽ có rất
nhiều “Cao tổ khảo”, “Tằng Tổ khảo”;…mặc dù những người cùng được gọi là “Cao
tổ khảo”…đó không phải là anh em mà là bố-con, ông-cháu... Khi đó một nhầm lẫn
nghiêm trọng xẩy ra là lẫn hết thế thứ (cháu
chắt xếp chung đời với Cụ, Kỵ…) và cháu xa đời lại vẫn gọi cụ Tổ như đời
Cha, Ông mình đã gọi!. Không hiểu như vậy, sau khi cúng xong mà gia đình thực
hiện nghi thức “Cung phần sớ văn” (H: 恭焚疏文, A: To burn respectfully the
petition to God, P: Brûler
respectivement le placet au Dieu, tức kính cẩn đốt Sớ văn) các Cụ có đồng ý
mà chấp nhận không?
Đây là tình trạng
chung của nhiều gia đình, dòng họ[2], kể cả những gia đình mà
trong họ có người có trình độ đến Cử nhân, Tiến sĩ Tân học[3]!.
Như vậy rõ ràng
cách viết, gọi trên là bất lợi, chỉ đúng trong 5 đời ở gia đình hay Tiểu chi
còn trong cúng Tổ và ghi bia mộ, chép Gia phả Đại tôn là không hợp, gây khó cho
đời sau. Ngày nay nên ứng dụng cách đánh số để chép Gia phả sẽ tốt hơn[4] và người còn sống (trên, ngang hay dưới người chép) vẫn
vào Phả được. Sau này khi con cháu nối nhau hay Tục biên Gia phả thấy cần thiết
vẫn bổ sung tiếp chỉ tăng số đời lên. Khi sử dụng bản Chúc văn có sẵn trong mỗi
dịp cúng giỗ cũng vậy.
2. Trong việc cúng giỗ:
Người Việt vốn coi “Hiếu hậu vi tiên” 孝厚為先 nên là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm
và gần như trở thành một tín ngưỡng: Đạo ông bà. Nhưng điều không có giáo lý,
không phụ thuộc vào quan điểm chính trị… “Đã nói tới tín ngưỡng dĩ nhiên có vấn
đề tin và không tin.” Tín ngưỡng này bắt nguồn từ quan niệm “vạn vật hữu linh” 萬物之靈, đó là niềm tin về sự bất tử của linh
hồn như Nguyễn Du (阮攸, 1766–1820) đã viết trong Truyện Kiều 傳翹: “Thác là thể phách, còn là tinh anh” 𣨰罗体魄群罗精英. Do vậy dân ta có tục tưởng niệm người đã mất bằng cách
“giỗ” 𣋼. Giỗ là một buổi lễ, nghi thức theo phong tục tập quán của người Việt quan trọng nhất trong việc thờ cúng Tổ tiên, nhằm tưởng
nhớ đến những người đã mất. Theo tục lệ, ngày giỗ là “chung thân chi tang” 終身之喪 có nghĩa là ngày tang trong suốt cả đời người. Mỗi năm gia đình làm giỗ là để nhắc nhở con cháu về những người đã đi trước; gắn kết tình cảm của các thành viên
trong cùng một gia đình, dòng họ. Việc này được tiến hành vào ngày mất (忌日”kỵ nhật” hay 吉忌, Cát kị) tính theo âm lịch (hay còn gọi là
“ngày ta”) là một trong những nghi thức quan trọng trong tục thờ cúng tổ
tiên. Việc này là một nghĩa vụ của đạo hiếu từ phong tục đã được chế định trong cổ luật và ngay trong
thời @.
Nhưng theo thời gian, cháu Đích tôn trong
những đại tộc nhận cúng rất nhiều người ở nhiều đời nên trong một năm có rất nhiều ngày giỗ,
thậm chí có ngày trùng nhiều giỗ. Do vậy không kham nổi về tài chính, không đủ thời
gian nên cổ nhân đã chọn cúng giỗ theo nguyên tắc “Ngũ Đại Mai Thần Chủ”五代埋神主.Theo nguyên tắc này, mỗi gia đình chỉ cần cúng giỗ: cha mẹ (đời 2), ông bà (đời 3),
cụ ông cụ bà (hay cố 4 đời) và kỵ (hay can 5 đời, tức Cao tổ), còn cụ ta
chỉ con ta cúng, đến đời cháu ta, cháu sẽ chôn Bài vị (H: 神主, A: The
tablet of the dead, P: La tablette du
mort) Cao tổ đi.
Những bậc trên Cao tổ gọi chung là Tiên
tổ được rước Bài vị vào thờ chung tại một nhà gọi là Tổ đường (H: 祠堂, A: The
ancestral temple, P: Le temple des
ancêtres) mỗi năm tế một lượt. Đó là thực hiện việc “hợp tự” hay “hiệp kị” 祫忌 thành “Góp Giỗ làm Chạp” và thường là
ngày giỗ cụ Tổ khai sáng 肇祖/始祖 hay người có công lớn với dòng họ, địa phương.
3. Trong hôn nhân :
Hôn nhân (H: 婚姻, A: Marriage, P: Mariage) là sự cam kết đồng ý giữa các cá nhân Nam và Nữ về các
khía cạnh luật pháp, xã hội và tôn giáo, là nền tảng
của gia đình trong hầu hết các dạng hình xã hội. Trong lịch sử, hôn nhân thường
là thỏa thuận xã hội giữa một người đàn ông (chồng) và một người đàn bà (vợ) trừ chế độ đa thê là có một người đàn ông lấy nhiều vợ, nhưng
cũng có khi một người đàn bà lấy nhiều chồng. Trong một số nước phương Tây hiện
nay, hôn nhân đồng tính được công nhận là một kiểu hôn nhân. Hôn nhân có thể là
kết quả của tình yêu hay sựu xếp đặt và khởi đầu bằng
việc cưới xin. Việc cưới này gọi là Hôn lễ
(H: 婚禮, A: Marriage
ceremony, P: Cérémonie de mariage)
tức là việc tổ chức đám cuới theo nghi lễ cổ truyền, hay theo nghi thức của tôn
giáo.
Từ xưa cổ nhân đã
cho rằng “Đồng tính bất hôn, ác bất thực dã” 同姓不婚,恶不殖也, nghĩa là những
người cùng Huyết thống (H: 血統 , A: The
consanguinity, P: La consanguinité)
không được phối hôn 配婚 với nhau để tránh điều di hại cho con cháu cũng như phạm và chuẩn
mực đạo đức.
Tín ngưỡng, đạo
đức, kinh nghiệm đều biết rằng tình trạng hôn nhân cận huyết, tức trai giá lấy
nhau trong phạm vi 3 đời sẽ phương hại đến tông pháp, đến thuần phong mỹ tục và
nòi giống. Muốn tránh những điều đó, tốt nhất là không kết hôn trong phạm vi 5
đời, tức là những người có chung ông Kỵ 暨 (H: 高祖, A: Great-great-grandfather,
tức Cao Tổ ) không được kết hôn với nhau.
Vấn đề thờ cúng
Tổ tiên, tránh kết hôn cận huyết không chỉ là phong tục, tín ngưỡng dân gian mà
đã được nâng lên thành đạo luật từ thời quân chủ. Cụ thể ngay trong BỘ LUẬT
HỒNG ĐỨC (tức Quốc triều hình luật 國朝刑律)thời Lê sơ (後黎朝, 1428–1527) trong 13 chương đã giành 2
chương là “Hộ hôn” và “Điền sản” bàn về hôn nhân, gia đình; về việc hương hỏa,
tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Ngày nay trong LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH số 22/2000/QH10 ngày
09 tháng 6 năm 2000 và BỘ LUẬT DÂN SỰ số: 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm
2005 đều giành những Chương, Điều cụ thể, tiến bộ, đầy tính nhân văn nhưng rất
nghiêm minh về vấn đề này.
-Lương Đức Mến, Thu 2012-
[1]
Đây là 5 đời với nghĩa “thế hệ” trong một dòng họ
chứ không phải 5 đời chỉ triều đại 朝 như: Đường 唐, Ngu 禹, Hạ 夏, Thương 商,
Chu 周 hay 5 đời: Tống 宋, Tề 齊, Lương 凉, Trần 陳, Tùy 隋 hoặc 5 đời: Hậu Lương 後凉, Hậu Đường 後唐,
Hậu Tấn 後晋, Hậu Hán 後漢, Hậu Chu 後周
trong lịch sử Trung Quốc.
[2] Tôi có đứa cháu ngoại lập mộ cho Bố khi khắc bia ghi là
“Bố Phạm Văn Hồng”, tôi bảo: thế mãi mãi đến đời con cháu mày bố mày vẫn chỉ là
“bố” thôi à! Cháu ớ người ra! Nhưng sự đã rồi!
[3] Mộ Cụ Tổ khai sinh dòng họ tôi ở xã Chiến Thắng, huyện An
Lão được xây vào tháng 12/2011 do cháu Trưởng họ đời thứ 9 tổ chức xây nhưng trên bia đá lại ghi
chữ “高祖考”, tức “Cao Tổ khảo” trước tên Cụ!
[4] Cách chép
Gia phả chính xác, khoa học lại thuận cho đời sau chép tiếp là biết được cụ nào
khai sinh ra dòng họ thì xếp là Đời thứ Nhất (Đệ Nhất đại tổ 第一代祖), các Thế
hệ sau chép thứ tự là Đời thứ Hai, thứ Ba… Với các cụ Tổ xa đời hơn về trước
nên ghi như sau:
Nguyên
Tổ 元祖 và Triệu Tổ: 肇祖 là Đức Tổ
đầu tiên nhất sinh ra những người chung một họ trong một nước. Ví dụ Hồ Hưng Dật
được suy tôn là Đức Nguyên Tổ họ Hồ Việt Nam ,
Hùng Vương là Nam
bang Triệu tổ 南邦肇祖.
Thuỷ Tổ 始祖: Ông tổ, vị tổ đầu tiên của một họ.
Ví dụ một số dòng họ Lương ở miền Bắc suy tôn Cụ Lương Đắc Bằng là Thuỷ Tổ.
Thượng Tổ 尚祖: là Cụ Tổ sinh ra Đệ Nhất đại Tổ mà dòng họ ở khu vực đang
thờ phụng. Ví dụ Lương Công Trạch được suy tôn là Thượng Tổ 上祖梁公宅 của họ
Lương xã Chiến Thắng, Hải Phòng còn con trai cụ là Lương Công Nghệ là Đệ Nhất đại
Tổ 第一代祖梁公羿.
Các vị Tổ Chi theo thứ bậc anh em mà gọi là Tổ
Chi Nhất, Chi Nhị…. Ví dụ: Tổ Chi thứ Nhất: Lương Công Tuấn 第一宗枝 梁公俊; Tổ Chi
thứ Nhì: Lương Công Chiêu 第二宗枝 梁公昭; Tổ Chi thứ Ba : Lương Công Tú 第三宗枝 梁公秀; Tổ Chi thứ Tư: Lương Công Thiệu:
第四宗枝 梁公劭; Tổ Chi
thứ Năm: Lương Công Linh: 第五宗枝 梁公怜.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!