Do Gia phả thất lạc nên không rõ chính xác Viễn tổ, Thủy tổ
của dòng họ đến các chi phái hiện nay thế thứ ra sao? cũng như việc Thượng tổ
tôi đến quê tôi bây giờ vào năm nào.
Dựa vào các dữ liệu đã dẫn ra tại phần bối cảnh lịch sử, những di
ngôn còn lại của tiền nhân, nghiên cứu nhiều bản Gia phả và thực tế dòng họ
cũng như Địa dư chí quê hương, vùng phụ cận, lời góp ý của người tâm huyết… tôi tính và thấy có lí nên tạm kết luận về chặng đường 800 năm
phát triển của dòng họ nhà mình như sau:
1. Quá trình hình thành “họ” 𣱆 là quá
trình đi từ “Tính” 姓 đến “Thị” 氏 rồi “Tính-Thị hợp nhất” 姓氏 gắn với quá trình tiến
hoá của xã hội loài người: từ chế độ mẫu hệ 母系制度 sang xã hội phụ hệ 父系制度, hoàn chỉnh dưới chế độ vương quyền 王权制. Cụ thể nó manh nha từ thời Phục Hi (宓羲, 2800 – 2737 tCn) và phát triển chính thức thời nhà Chu (周朝, 1046 – 256 tCn). Khi có thành tố “họ”
thì xã hội thừa nhận, biết rõ cá nhân thuộc về một gia tộc 家族, có cùng tộc danh 名族 theo huyết thống 血缘 trong chế độ “Tông tộc” 宗族制. Hình thức “họ” của người
Việt là do ảnh hưởng văn hóa Hoa Hạ 华夏 và nó diễn ra muộn hơn, khởi nguồn trong thời Bắc thuộc lần thứ nhất
(北屬時代, 207 tCn-939). Mỗi họ có một chữ chỉ tộc danh có khi cố định hay biến đổi ý nghĩa ngữ nguyên và nếu tộc danh Việt tương ứng với tộc danh Hán thì chữ ký âm bởi
chữ Hán 漢字 là như
nhau.
2. Tộc danh Lương,
chép bởi chữ Hán là 梁 khởi từ thị tộc Doanh Tần 嬴秦 do “lấy tên đất làm họ” 原是地名 hoặc tộc danh kép của người thiểu số khi thống nhất vào trung nguyên được
quan lại Hán hóa. Với người Việt đó là hậu duệ của
người Bách Việt 百越 phương Bắc
di cư sang, do quan cai trị mang tộc danh có sẵn “gán” họ, do người Việt bắt
chước” tự nhận họ…
3. Để lánh nạn
truy diệt khi quê hương rơi vào tay ngoại bang, đầu thế kỷ XIII, anh em nhà họ
Lương từ Chiết Giang 浙江省 rời Đại Tống 大宋國 tìm xuống phương Nam . Đến năm 1328 hậu duệ của người
em lập nghiệp và mở ra dòng họ Lương Hội
Triều 梁會朝 ở Triều Hải 鳳嚦, tổng Bái Cầu 沛梂, huyện Cổ Đằng 古籐 sau đổi huyện Hoằng Hóa 弘化, trấn Thanh Hoa 青花 (nay
là thôn Hội Triều, xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa), giỗ Tổ vào Mồng Năm tháng Bẩy. Đây là một
trong những trung tâm lớn, nơi phát tích nhiều chi phái họ Lương Việt Nam 梁越南.
4. Vào thế kỷ XVI
cũng tránh họa truy diệt bởi những nhiễu nhương thời nội chiến Lê – Mạc (南北朝, 1533-1592), một hậu duệ của
Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (梁得朋, 1472 - 1522) từ Hội Triều 會朝 xứ Thanh ra Bắc và được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (阮秉謙, 1491 - 1585) giúp đưa đến sinh cư tại làng Lao Chữ 牢渚, tổng Dương Áo 陽襖,huyện Tân Minh 新明 (sau cải Tiên Minh 先明), phủ Nam Sách 南策, trấn Hải Dương 海陽 (nay là xã Hùng Thắng huyện Tiên Lãng, tf Hải Phòng). Từ đó lập nên dòng họ Lương Lao Chữ 梁牢渚 mà khởi đầu là cụ Lương Đắc Cam 梁贵公諱甘字三郎. Đây là gốc khởi
thủy của hầu hết các dòng họ Lương Tiên
Lãng, giỗ Tổ vào Rằm tháng Tám trong đó có phái họ Lương Đăng Lai
梁登來.
5. Khoảng 7, 8
đời sau, vì sinh kế cụ Lương Công Trạch 梁公宅 từ Đăng Lai 登來 (sau cải Phương Lai 芳來), tổng Kinh Lương 涇涼 huyện Tiên Minh 先明, phủ Nam Sách 南策, trấn Hải Dương 海陽 (nay thuộc xã Cấp Tiến, huyện
Tiên Lãng) sang khai canh ở Hương Lạp 芗粒 (sau cải Phương Lạp 芳粒), tổng
Cao Mật 高密, huyện An Lão 安老, phủ Kinh Môn 荊門 (sau
là Kiến Thụy 建瑞), trấn Hải Dương
海陽 (từ 1906 là tỉnh Kiến An 建安) lập ra dòng họ
Lương ở Chiến Thắng[1] 梁高密, giỗ Tổ vào Rằm tháng Giêng. Việc này diễn
ra vào khoảng năm 1750, đến 2012 được 12 đời. Phái này khác với phái Lương Bạch Đằng, Lương Vinh Quang cùng gốc Dương Áo 陽襖 (nay là Hùng Thắng) mới xác lập tại vùng đó cuối thế kỷ XIX[2]. Mối quan hệ giữa họ Lương Chiến Thắng
và Lương An Thọ (có thôn Cao Mật giáp Cốc Tràng) cùng
huyện An Lão ngày nay có lẽ cùng họ từ Tổ tỉ gốc Lương Quan Bồ
關蒲[3].
Trên đây là việc
“dựng lại” CỘI NGUỒN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DÒNG HỌ của cá nhân người soạn chuyên
khảo này. Điều đó gần sự thật đến đâu còn chờ thời gian và nhiều người, nhiều
tư liệu thẩm định, đánh giá, xác tín. Song chưa ai viết thành văn nên chắc chắn
đây là chuyên luận xác định đầu tiên và có cơ sở nhất.
6. Từ Cao Mật (nay là thôn Phương Hạ, xã Chiến Thắng, huyện
An Lão, Tf Hải Phòng) nhiều gia đình, chi chòm tiếp tục ra đi mở ra các chi
phái ở miền Nam, miền Trung, miền ngược
và nhiều nơi ngay vùng đồng bằng đã có chép trong Gia phả. Trong đó có phái họ Lương Đức gốc Chiến Thắng đang ở Lào Cai 梁德老街 gồm những gia đình ngành 1, ngành 2 lên tháng 2/1964 và rải rác đến
năm 1970 mà trung tâm hiện nay ở thôn An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng.
7. Trên cơ sở đó
Tạm dựng sơ đồ như sau:
LƯỢC ĐỒ
CỘI NGUỒN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DÒNG LƯƠNG ĐỨC LÀO
CAI
Phần TÍNH TOÁN THEO TRUYỀN NGÔN
Quê nhà gặp cảnh nhiễu nhương,
Ra đi lánh nạn, mở đường dựng xây.
THỜI
GIAN
|
DANH
TÍNH, THẾ THỨ
|
ĐẤT
KHAI CƠ
|
||||
Trước
|
LƯƠNG
? ?
梁 ? ?
|
Tỉnh Chiết Giang 浙江省, nước Đại Tống 大宋國
|
||||
Thế kỷ XIII
|
Người Em: LƯƠNG ? ?
梁 ? ?
|
Anh: đến
vùng
Em: vào
vùng Thanh Hóa nay
|
||||
CHƯA
KHẢO CỨU ĐƯỢC
|
Thôn Ngò, Đại Lý 大里, giáp
Cổ Đằng 古籐, phủ Hà Trung 河中, trấn Thanh Hoa (nay là
thôn Y Ngô, xã Đại Lộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa)
|
|||||
1328
|
Thủy Tổ: MỘ ĐÔ PHỦ QUÂN
墓都府君
|
|||||
1408
|
Đời thứ 4: LƯƠNG TÔNG HUỆ
梁宗惠
|
Triều Hải
鳳嚦, tổng
Bái Cầu 沛梂, huyện Cổ Đằng
古籐
sau đổi huyện
Hoằng Hóa 弘化 (nay là thôn Hội Triều, xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa, tỉnh
Thanh Hóa).
|
||||
1472 – 1516 (?)
|
Đời thứ 6: LƯƠNG ĐẮC BẰNG
梁得朋
|
|||||
Thế kỷ XVI
|
CHƯA
KHẢO CỨU ĐƯỢC
|
|||||
Đời thứ 8 ± 1: LƯƠNG ĐẮC
梁贵公諱甘字三郎
Tổ Thượng
các dòng họ Lương vùng Tiên Lãng và An Lão
|
Lao Chữ 牢渚, tổng Dương Áo 陽襖
|
huyện Tân Minh 新明
(sau cải Tiên Minh 先明), phủ Nam Sách 南策, trấn
Hải Dương 海陽
|
Nay là xã Hùng Thắng
|
huyện Tiên Lãng, tf Hải Phòng
|
||
Thế kỷ XVII
|
CHƯA
KHẢO CỨU ĐƯỢC
|
|||||
Nay là xã Cấp Tiến
|
||||||
Đầu Thế kỷ XVIII
|
Đời thứ 15 ± 1: LƯƠNG ? ?
梁 ? ?
|
Đăng Lai 登來 (Phương Lai 芳來), tổng Kinh Lương 涇涼
|
||||
Đời thứ 16 ± 1 :
LƯƠNG
CÔNG TRẠCH 梁公宅
Đời thứ 8 ± 1 từ Cụ LƯƠNG ĐẮC
Thượng tổ
dòng Lương Cao Mật
|
||||||
Xã Hương Lạp 芗粒, tổng Cao Mật 高密, huyện An Lão 安老, phủ Kinh Môn 荊門 (sau là Kiến Thụy 建瑞),
trấn Hải Dương 海陽.
|
Phần ĐÃ CHÉP TRONG GIA PHẢ:
Sẵn mang dòng máu vẫy vùng,
Cháu con tiếp mở muôn trùng nước non.
THỜI
GIAN
|
DANH
TÍNH, THẾ THỨ
|
ĐẤT
KHAI CƠ
|
|
Đầu Thế kỷ XVIII
|
Đời thứ 16 ± 1
LƯƠNG
CÔNG TRẠCH 梁公宅
Thượng tổ
dòng Lương Cao Mật
|
Xã Hương Lạp 芗粒, tổng Cao Mật 高密, huyện An Lão 安老, phủ Kinh Môn 荊門 (sau đổi là phủ Kiến Thụy 建瑞),
trấn Hải Dương 海陽.
|
|
Khoảng
1750
|
Đời thứ 17 ± 1:
LƯƠNG
CÔNG NGHỆ 梁公羿
Đệ Nhất
tổ dòng Lương Cao Mật
|
||
1906 đổi Phương Lạp 芳粒, tổng Cao Mật 高密,
huyện An Lão 安老, tỉnh Kiến An 建安
(nay là
thôn Phương Hạ, xã Chiến Thắng, huyện An Lão, Tf Hải Phòng)
|
|||
Trước
2/1964
|
Đời thứ 22 ± 1 :
LƯƠNG
ĐỨC THÂN (1923-1997)
Đời thứ
6 từ Cụ L.C. NGHỆ
Đệ Nhất
tổ phái ở Lào Cai
|
||
Từ
2/1964
|
La Cà Bốn (nay là An
Phong), xã Phong Niên,
huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai (giai đoạn 1976-1991 là tỉnh Hoàng Liên Sơn)
|
||
Đời thứ 23 ± 1:
LƯƠNG
ĐỨC MẾN
(Người tục
biên Gia phả và soạn Chuyên khảo này)
|
|||
Từ
11/1981
|
phường Yên Thịnh, tx Yên Bái, tỉnh
Hoàng Liên Sơn. 10/1991 lên Lào Cai
khi tái lập tỉnh
|
||
Từ 7/1993
|
Tổ 15 (từ 1999 là Tổ 22), phường Kim Tân, thị xã (từ 2004 là
thành phố) Lào Cai, tỉnh
Lào Cai.
Ngoài ra con cháu Cụ Thân còn sinh
sống ở Hà Nội và 3 huyện, thành phố trong tỉnh Lào Cai
|
||
Đời thứ 24 ± 1:
LƯƠNG
ĐỨC HẢI THƯƠNG
(Sinh 11/ 1985)
|
|||
Đời thứ 25 ± 1:
LƯƠNG
ĐỨC HẢI
(Sinh 9/ 2012)
|
Bài này thay thế một số bài trước khi chưa đủ tư liệu và
chắc chắn sẽ còn thiếu và chưa chính xác ở chi tiết nào đó. Rất mong được quan
viên họ và những ai tâm huyết góp ý để những tư liệu, nhận xét, kết luận trên
sớm được bổ sung, sửa đổi một cách chính xác và đầy đủ hơn.
Lương Đức Mến (Đời thứ 7 dòng Lương Chiến Thắng, thế hệ thứ 2 trên đất Lào Cai).
[1]
Gia phả họ nhà tôi ghi rõ gốc gác cụ Tổ. Hơn nữa mộ Thượng tổ táng tại Kim Đới 今帶, Tiên Lãng,
Hải Phòng. Mộ Tổ tỷ táng tại Triều Đông 潮東 sau cải Trung Lăng 中陵 (nay là Khu
V TT Tiên Lãng). Đệ Nhất đại Tổ dòng họ Lương ở Cao Mật (Chiến Thắng, An
Lão, Hải Phòng nay) là Cụ Lương Công Nghệ 第一代祖梁公羿 sinh 6 trai (Lẫm, Tuấn, Chiêu,
Tú, Thiệu, Linh) và 3 gái. Tổ mất ngày 19/5. Mộ táng tại xã Dư Đông 余東, tổng Phú Kê 富鷄 (nay thuộc
Khu I thị trấn Tiên Lãng). Tuy đã sang An Lão, nhưng khi mất, Thượng tổ
táng tại Trung Lăng và Đệ Nhất tổ táng tại
Dư Đông đều thuộc tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh 先明 (nay là thị trấn huyện Tiên
Lãng).
[2]
Trong bản Phú úy 賦熅
họ Lương Vinh Quang mà tôi đang có (Đời 1 đến đời 10) thì các đời 3, 4,
5, 6 không có ai tên là Lương Công Trạch, Lương Công Cảnh và cũng không cụ nào
có vợ mang họ Nguyễn (phu nhân cụ Trạch là Nguyễn Thị Lã ), họ Lương (phu
nhân cụ Nghệ là Lương Thị Còi) nên chắc chắn các Cụ khai sáng dòng nhà tôi không nằm trong bản Phú úy này. Chú ý
vào đời Thứ Ba có 4 cụ, trong đó có cụ mà vợ họ Đỗ 杜(壽) không thấy chép tên; đời thứ 5 có 8 cụ,
trong đó có cụ vợ là Vũ Thị Động 武氏洞 cũng không thấy chép tên. Cuốn Phả hệ này, gọi các Cụ đời
thứ 10 là Tằng tổ chắc là do con cháu đời 13 chép và khi đó không còn liên hệ
sâu gì với phái Cao Mật .
Phải chăng do
Tổ Thượng các Cụ nhà tôi “tha hương” từ mấy đời trước nên đời sau không nhớ mà
chép. Hoặc Gia phả họ Lương khác ở Tiên Lãng có mà tôi chưa được tiếp cận để
lấp “khoảng trống” nói về các Cụ nhà tôi?
[3]
Tổ tỷ là Lương Thị Còi 𩲡 (Ngỗi) hiệu Diệu Cần 妙勤, quê Quan Bồ 關蒲 gần Phương Lai 芳來 và cùng thuộc
tổng Kinh Lương 涇涼,
Tiên Minh (nay là xã Cấp Tiến huyện Tiên Lãng) cùng tộc danh với Thượng
tổ và mộ táng tại Đại Phương Lang 大芳榔 (nay là An Thọ, An Lão, Hải Phòng) là vấn đề còn bỏ
ngỏ.
Góc trên trái của 2 Bảng đều mất nét. Không biết tại đâu, sửa mãi chưa được. Cứ để đó học lại sửa sau!
Trả lờiXóaTôi thấy có họ Lương nhà bác ở đây :
Trả lờiXóahttp://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/truy-tim-ve-mot-giai-thoai-at-mo-bai-1.html.
Bác nghiên cứu thử xem sao. dienbatn.