[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


28 tháng 3 2024

Văn khấn NGÀY GIỖ TỔ CHI

Mấy lần dự Giỗ Tổ tôi thấy các chú, các anh, các cháu ở quê sử dụng bài khấn có lẽ soạn từ đời các cụ ngang vai ông Nội tôi mà lại không hiểu nghĩa cổ nên trong xưng hô không chuẩn, kể thế thứ tiền nhân. Đặc biệt, trong bài Khấn Tế dùng lẫn cả âm Hán Việt và thuần Việt nên người nghe, nếu có chút hiểu biết thấy rất khó chịu!

Tham khảo các bài văn Tế, Khấn của các họ lớn, dựa vào bài Khấn bố tôi soạn trước kia và lịch sử dòng họ, từ năm 1999 tôi soạn bài văn Khấn giỗ Tổ cho phái Lào Cai, hằng năm có bổ sung, sửa đổi.

Nay chỉnh sửa lại, đưa vào đây để quan viên họ tham khảo, sử dụng (thay ngày tháng năm theo lịch Can Chi cho phù hợp). Khấn rằng:

Kính nghe:

Có thờ có thiêng, có kiêng có lành; Có Hiếu được đáp đền,  có Kính ắt Phật, Thần phù hộ.

Cành rợp bóng, dòng chảy không ngừng vì gốc vững, nguồn dài; Gia môn khang thái bởi Linh Miếu trường tồn, oai linh Tiên Tổ.

Uống nước phải nhớ nguồn, hưởng trái thơm nhớ ơn người trồng; Đó là nếp hiếu nghĩa ngàn xưa, là đạo cương thường vạn cổ.

Bởi thế cho nên:

Nhân ngày Giỗ Tổ, ngưỡng vọng Tôn linh; Từ nơi Tổ khai cơ lập nghiệp, Lễ bạc lòng thành, những mong tường tỏ.

 Hôm nay: Thứ ….ngày…., tức 19 tháng Hai năm….…..(âm lịch theo Can Chi), gặp kỳ tưởng nhớ Đức Tổ chi Hai,

Đứng trước bàn thờ tại gia đường tín chủ con:  Đệ Bát đại Lương Đức gia tộc, Trưởng đệ Nhị Chi là: Lương Đức Thành, sinh năm 19…, hợp cùng Mẫu thân, bá, thúc, huynh, đệ tử, tức, tôn, tằng nội ngoại, rể dâu tụ họp tại Gia từ,

Kính thỉnh :

- Chín phương Trời, năm phương Đất, chư Phật mười phương;

- Ngài Đại tướng quân, Hành khiển, Hành binh Phán quan chi Thần đương niên năm…..(âm lịch);

- Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng, các Ngài Thổ Địa, Táo Quân, Long Mạch tôn Thần của xứ Phương Hạ;

Cùng là Hoàng Thiên, hậu Thổ, chư vị tôn Thần.

Con tiếp Kính thỉnh:

Đệ Nhị đại, Tổ đệ Nhị Chi là Lương Công Tú thụy Đức Long và các Tổ tỉ: Đặng Thị Nhượng, Nguyễn Thị Dụng, Hoàng Thị Châu, Đặng Thị Chiền;

Kính thỉnh:  Thủy tổ Lương Công Trạch, Tổ tỉ Nguyễn Thị Lã;

Đệ Nhất Đại Tổ Lương Công Nghệ, Tổ Tỉ Lương Thị Còi, tức Ngỗi;

Đồng kính thỉnh:

- Đệ Tam đại, Tổ phái Nhất đệ Nhị Chi là Lương Đức Xưng, Tổ tỉ Vũ Thị Đào;

- Đệ Tam đại, Tổ phái Nhị đệ Nhị Chi là Lương Đức Hanh, Tổ tỉ Đặng Thị Chẻo và  Chưa rõ danh

- Đệ Tam đại, Tổ phái Tam đệ Nhị Chi là Lương Đức Lân; Đệ Tam đại Lương Đức Mã; Đệ Tam đại Lương Đức Ly; Đệ Tam đại Lương Đức Phượng

cùng Hương linh Lương tộc Lịch đại tổ tiên, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Hiển khảo, Cô, Ry, Tỉ, Muội, Huynh, Đệ và các bậc phụ thờ theo tiên tổ của Lương tộc.

Cùng các vong linh Tiền chủ, Hậu chủ, y thảo phụ mộc ở trong vùng.

Giáng lâm trước án nghe con kính trình:


MỪNG HÔM NAY:

Trời tháng Hai khí sáng, trời xanh, Đất Phương Hạ rộn vui xóm ngõ;

Ngắm núi Voi sừng sững, tưởng lại cội xưa, Nhìn sông Úc vỗ bờ, nghĩ về nguồn cũ;

Con cháu chi Hai, Từ mọi phương hướng về đất Tổ.

Tụ họp tại Gia đường cùng nhau Giỗ họ.

NHỚ THUỶ TỔ XƯA:

Sinh tại Tiên Minh[1]; Mộc Thủy[2] thế phổ.

Nhà 2 con gặp cảnh điêu linh; Nước “lưỡng chế” cơ đồ nghiêng ngửa.

Xứ Đông lụt lội, bao cảnh tang thương; Làng xóm xác xơ, đời càng thêm khổ.

Đành một gánh từ bỏ quê hương; Dắt vợ con tìm nơi dễ thở.

Thấy bên tả sông Văn nước ngập, muỗi đầy, người vẫn còn thưa; Bèn sang đó đắp bờ thau chua, rửa mặn, phát hoang, cầy vỡ.

Công sức mồ hôi đã thấu đến trời, Lại được họ Nguyễn, họ Mai giang tay giúp đỡ.

Xây thành xóm, thành ruộng thành đồng; Dựng nên nhà, nên chồng, nên vợ.

Hoài cố hương, trở lại Đăng Lai; Tiếp căn cơ và hương khói Tổ.

Lưu cháu con xây dựng Hạ Hương; Khởi tổ tiên họ Lương tân thổ.

ĐỨC TỔ TA:

Cha vốn gốc Phương Lai, Mẹ Quan Bồ cùng lộ.  

Tuổi thơ ấu, xa cách chẳng biết nhau, Thời khôn lớn  nên duyên chồng vợ.

Tiếp việc mẹ cha xây dựng Hạ Hương, Bao công sức, khơi mương, vượt thổ.

Bồi lấp bãi lầy, Dọn quang lăn, cỏ.

Đây Cốc Tràng, Tôn Lĩnh, Kim Côn khi sương chiều, khi nắng sớm, nghĩa hương thôn ấm lạnh đỡ đần; Kìa Hương Lạp, Mông Tràng, Tôn Lộc, lúc nắng Hạ, lúc mưa Đông, tình xóm làng răng môi gắn bó.

Việc cấy cày, đã hết dạ chăm lo; Đường học vấn, còn dày công dạy dỗ.

Thuật xử thế ngoài êm trong ấm, thầy hay bạn tốt, chọn nhân nghĩa phương châm; Việc tề gia trên thuận dưới hòa, con thảo cha hiền, dùng hiếu từ quy củ.

Công ơn mở đất, ai cũng kính yêu; Tâm huyết xây quê, đời càng thấy rõ.

Theo đà tiến triển, cùng dân cũ tô điểm quê cha; Giữ nếp cổ truyền, nhớ cội nguồn dựng xây đất tổ.

ĐẾN ĐỨC TỔ CHI:

Tính hiền thục, trí học giỏi giang, chuyện họ chăm lo, việc làng gắng cố.

Được vợ đảm nên rộng ruộng vườn, lắm gia nhân; Trời thử thách để chậm đường con,  Nghe họ hàng nạp thêm 3 vợ.

Sinh được 6 nam, cưới gả quanh vùng cháu con ngày càng đông đàn dài lũ.

Người mất tháng Năm giữa lúc thu mùa; Nhớ Tổ tỉ ra đi làm ngày Giỗ Tổ.

HẬU DUỆ TRUYỀN :

Noi gương Tổ: ngày thất bát hai vợ chồng- Bên nồi, bên con, thau chua rửa mặn lập ra làng xóm, gây nghiệp kiệm cần; Học tiền nhân: Buổi khai hoang vài chi phái- Vượt núi, băng rừng, san đồi, vỡ ruộng dựng nên thôn phố, xây dòng tiến bộ.

Lời xưa, ý nay bồi đắp: đạo Thánh hiền cháu con ghi nhớ noi theo; Đất cũ, làng mới xum vầy: tình cốt nhục khắp nơi thân thương gắn bó.

Đức khai cơ cao tựa núi Voi; Ân dưỡng dục dài hơn sông Úc.

Mênh mông bể cả, tổ ấm tài bồi; Thăm thẳm non cao, tôn công tế độ.

Để có ngày phú quý, bao công sức đổ xuống đất này; Vì sự nghiệp mai ngày, biết bao lần vượt khó. 

Quê hương đổi mới nhờ địa lợi mà bát ngát màu xanh; Nội lực phát huy lấy nhân hoà để vượt qua gian khổ.

ĐÚNG LÀ:

 Tu nhân, tích đức, Phật đền cho; Khổ tứ, lao tâm, Trời chẳng phụ.

Trải lúc cơ trời biến cải, dù buổi thái bình hay cơn binh lửa, sức âm phò quả đã vô cùng; Qua tuần cuộc thế đổi thay, dù nơi đất khách hoặc chốn quê nhà, ơn mặc trợ mỗi ngày mỗi tỏ.

Đất lành người đảm, đời này sang đời nọ, thụ hưởng hồng ân;  Nhân tốt quả xinh, lớp trước tiếp lớp sau, đượm nhuần phúc thọ.

NAY GẶP BUỔI:

Kinh tế thị trường,  Giao lưu mở cửa.

Dẫu đã hướng đi lên; Còn muôn điều thách đố.

 Sao cho kịp bước canh tân, Để khỏi mang danh bảo thủ.

 Học ông cha: mở óc suy tư, Cùng dòng họ: bền gan gắng cố.

 Khắp tứ phương: Nam, Bắc, ngược, xuôi, Dù bách nghệ: sĩ, nông, công, cố.

Đường kinh doanh đã quyết là thành, Nghiệp khoa cử đã thi là đỗ.

BỞI THẾ CHÁU CON NAY:        

Tu sửa Gia đường; Chỉnh trang Phần mộ.

Nhớ người góp công sửa chỗ đi về; Ghi người công đức sửa nơi thờ tự.

Mộ phần tu chỉnh, nghìn thu cựu tích tô bồi; Tự sở phong quang, sáu Phái cơ ngơi minh lộ.

Sưu tầm tài liệu, thi văn tuyển trạch, phụ lục dồi dào; Bổ túc di dung, thế thứ phân minh, Phái Chi đầy đủ.

HÔM NAY :

Sát cánh bên nhau, Trước bàn thờ Tổ.

Sắm hương hoa, một lễ chân thành; Tưởng công đức muôn phần ngưỡng mộ.

Nghe Chúc văn, lưu công đức muôn đời;  Dõi sơ đồ, rõ quế hòe trăm nụ.

Cúi  nguyện  nghĩ: Vầng nhật nguyệt sáng rạng mười phương; Đức Tổ tông lưu danh muôn thuở.

Ngẩng cao trông: Phúc ấm nối đời, “Tế thần, thần tại'” giáng nơi Từ Đường; Cháu con thờ phụng, “Xuân kị Thu thường” đều kỳ cúng giỗ.

Thắp nén hương nghi ngút tại Gia đường, Đặt cành hoa ngạt ngào bên mộ Tổ.

Tấm lòng tôn kính, lễ bạc tiến nghinh; Văn tế nôm na, tấc thành biểu lộ.

Tưởng nhớ ân sâu Đấng Anh Linh, Tâm nặng nghĩa dầy Tiên Liệt Tổ.

Nguyện Hiếu, Trung, vì Nước vì Dân, Tròn Tình, Nghĩa với Đời, với Họ.

Mang Chính Tâm dạy cho con cháu, lấy Nhân Tín làm điều xử sự.

Người ở quê giữ phần hương khói chăm sóc Gia đường, tạo tôn phần mộ.

Kẻ đi xa khơi dòng ôn cố, dốc tâm dựng cơ đồ, rạng danh đất cũ.

CÚI XIN:

Lương tộc Lịch đại Tổ tiên từ cõi linh thiêng, Ân Đức dẫn đường giúp con cháu ngày thêm tiến bộ.

Để mọi người đạt thành may mắn; Cho toàn gia Khang Ninh Phúc Thọ.     

Làng xóm mạnh giầu, Quốc cường, dân phú.

Khắp ngược xuôi, Hạnh phúc Yên Vui, dòng Lương tộc mãi mãi sáng danh; Đều trai gái, công đức ngàn trùng, giữ nếp gia tiên, khói hương muôn thuở.

Lòng thành kính bái, xin được chứng minh; Ước vọng dâng lên, kính xin tế độ.

Cúi xin Tiên Tổ chứng minh, phù hộ

 -Cẩn cáo-

[1] Tức Tiên Lãng, nơi khởi phát dòng họ Lương gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng

[2] Bộ Mộc ghép với chữ Thủy viết dưới dạng bộ thành ra chữ Lương , chỉ tên dòng họ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!