Có thờ có thiêng, có kiêng có lành; Có Hiếu được đáp đền, có Kính ắt Phật, Thần phù hộ.
Cành rợp bóng, dòng chảy không ngừng vì gốc vững, nguồn dài; Gia môn khang thái bởi Linh Miếu trường tồn, oai linh Tiên Tổ.
Uống nước phải nhớ nguồn, hưởng trái thơm nhớ ơn người trồng; Đó là nếp hiếu nghĩa ngàn xưa, là đạo cương thường vạn cổ.
Bởi thế cho nên:
Nhân ngày Giỗ Tổ, ngưỡng vọng Tôn linh; Từ nơi gia đình lập nghiệp, Lễ bạc lòng thành, những mong tường tỏ.
Đứng trước bàn thờ tại gia đường tín chủ con: Đệ Thất đại Lương Đức gia tộc, Trưởng Phái Út đệ Nhị Chi là: Lương Đức Mến, sinh năm 1955 hợp cùng Mẫu thân, các em, các cháu nội ngoại, rể dâu tụ họp tại Gia từ,
Kính thỉnh :
- Chín phương Trời, năm phương Đất, chư Phật mười phương;
- Ngài Đương Chí đức Tôn thần Canh Tý niên: Lư Siêu Đại tướng quân; Chu Vương Hành Khiển, Thiên Ôn Hành Binh chi Thần, Lý Tào Phán quan[3];
- Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng, các Ngài Thổ Địa, Táo Quân, Long Mạch tôn Thần của xứ An Phong;
Cùng là Hoàng Thiên, hậu Thổ, chư vị tôn Thần.
Con tiếp Kính thỉnh:
Đệ Nhị đại, Tổ đệ Nhị Chi là Lương Công Tú thụy Đức Long[4] và các Tổ tỉ: Đặng Thị Nhượng, Nguyễn Thị Dụng, Hoàng Thị Châu, Đặng Thị Chiền;
Kính thỉnh: Thủy tổ Lương Công Trạch, Tổ tỉ Nguyễn Thị Lã;
Đệ Nhất Đại Tổ Lương Công Nghệ, Tổ Tỉ Lương Thị Còi, tức Ngỗi;
Đồng kính thỉnh:
- Đệ Tam đại, Tổ phái Nhị đệ Nhị Chi là Lương Đức Hanh, Tổ tỉ Đặng Thị Chẻo và Chưa rõ danh;
- Đệ Tứ đại, Lương Đức Trinh, Tổ tỉ Nguyễn Thị Lề;
- Đệ Ngũ đại Lương Đức Trính, Tổ tỉ Đặng Thị Chỉ;
- Đệ Lục đại, Hiển khảo Lương Đức Thân
Đệ Lục đại Lương Đức Dật, Hiển thẩm Lưu Thị Bính
cùng Hương linh Lương tộc Lịch đại tổ tiên, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Hiển khảo, Cô, Ry, Tỉ, Muội, Huynh, Đệ và các bậc phụ thờ theo tiên tổ của Lương tộc.
Cùng các vong linh Tiền chủ, Hậu chủ, y thảo phụ mộc ở trong vùng.
Giáng lâm trước án nghe con kính trình:
MỪNG HÔM NAY:
Trời tháng Hai khí sáng, trời xanh, Đất An Phong rộn vui xóm ngõ;
Ngắm Hoàng Liên sừng sững, tưởng lại cội xưa, Nhìn Hồng Hà vỗ bờ, nghĩ về nguồn cũ;
Con cháu chi Hai, sống tại Lào Cai hướng về đất Tổ.
Tụ họp tại Gia đường cùng nhau Giỗ họ.
NHỚ THUỶ TỔ XƯA:
Đành một gánh từ bỏ quê hương; Dắt vợ con tìm nơi dễ thở.
Thấy bên tả sông Văn nước ngập, muỗi đầy, người vẫn còn thưa; Bèn sang đó đắp bờ thau chua, rửa mặn, phát hoang, cầy vỡ.
Công sức mồ hôi đã thấu đến trời, Lại được họ Nguyễn, họ Mai giang tay giúp đỡ.
Xây thành xóm, thành ruộng thành đồng; Dựng nên nhà, nên chồng, nên vợ.
Hoài cố hương, trở lại Đăng Lai; Tiếp căn cơ và hương khói Tổ.
ĐỨC TỔ TA:
Tuổi thơ ấu, xa cách chẳng biết nhau, Thời khôn lớn nên duyên chồng vợ.
Tiếp việc mẹ cha xây dựng Hạ Hương, Bao công sức, khơi mương, vượt thổ.
Bồi lấp bãi lầy, Dọn quang lăn, cỏ.
Đây Cốc Tràng, Tôn Lĩnh, Kim Côn khi sương chiều, khi nắng sớm, nghĩa hương thôn ấm lạnh đỡ đần; Kìa Hương Lạp, Mông Tràng, Tôn Lộc, lúc nắng Hạ, lúc mưa Đông, tình xóm làng răng môi gắn bó[11].
Việc cấy cày, đã hết dạ chăm lo; Đường học vấn, còn dày công dạy dỗ.
Thuật xử thế ngoài êm trong ấm, thầy hay bạn tốt, chọn nhân nghĩa phương châm; Việc tề gia trên thuận dưới hòa, con thảo cha hiền, dùng hiếu từ quy củ.
Công ơn mở đất, ai cũng kính yêu; Tâm huyết xây quê, đời càng thấy rõ.
Theo đà tiến triển, cùng dân cũ tô điểm quê cha; Giữ nếp cổ truyền, nhớ cội nguồn dựng xây đất tổ.
ĐẾN ĐỨC TỔ CHI:
Tính hiền thục, trí học giỏi giang, chuyện họ chăm lo, việc làng gắng cố.
Được vợ đảm nên rộng ruộng vườn, lắm gia nhân; Trời thử thách để chậm đường con[12], Nghe họ hàng nạp thêm 3 vợ.
Người mất tháng Năm giữa lúc thu mùa; Nhớ Tổ tỉ ra đi làm ngày Giỗ Tổ.
HẬU DUỆ TRUYỀN :
Noi gương Tổ: ngày thất bát hai vợ chồng- Bên nồi, bên con, thau chua rửa mặn lập ra làng xóm, gây nghiệp kiệm cần;
Học tiền nhân: Buổi khai hoang vài chi phái- Vượt núi, băng rừng, san đồi, vỡ ruộng dựng nên thôn phố, xây dòng tiến bộ[14].
Lời xưa, ý nay bồi đắp: đạo Thánh hiền cháu con ghi nhớ noi theo; Đất cũ, làng mới xum vầy: tình cốt nhục khắp nơi thân thương gắn bó.
Đức khai cơ cao tựa núi Voi; Ân dưỡng dục dài hơn sông Úc.
Mênh mông bể cả, tổ ấm tài bồi; Thăm thẳm non cao, tôn công tế độ.
Để có ngày phú quý, bao công sức đổ xuống đất này; Vì sự nghiệp mai ngày, biết bao lần vượt khó.
Quê hương đổi mới nhờ địa lợi mà bát ngát màu xanh; Nội lực phát huy lấy nhân hoà để vượt qua gian khổ.
ĐÚNG LÀ:
Tu nhân, tích đức, Phật đền cho; Khổ tứ, lao tâm, Trời chẳng phụ.
Trải lúc cơ trời biến cải, dù buổi thái bình hay cơn binh lửa, sức âm phò quả đã vô cùng; Qua tuần cuộc thế đổi thay, dù nơi đất khách hoặc chốn quê nhà, ơn mặc trợ mỗi ngày mỗi tỏ.
Đất lành người đảm, đời này sang đời nọ, thụ hưởng hồng ân; Nhân tốt quả xinh, lớp trước tiếp lớp sau, đượm nhuần phúc thọ.
NAY GẶP BUỔI:
Kinh tế thị trường, Giao lưu mở cửa.
Dẫu đã hướng đi lên; Còn muôn điều thách đố.
Sao cho kịp bước canh tân, Để khỏi mang danh bảo thủ.
Học ông cha: mở óc suy tư, Cùng dòng họ: bền gan gắng cố.
Khắp tứ phương: Nam, Bắc, ngược, xuôi, Dù bách nghệ: sĩ, nông, công, cố.
Đường kinh doanh đã quyết là thành, Nghiệp khoa cử đã thi là đỗ.
BỞI THẾ CHÁU CON NAY:
Tu sửa Gia đường; Chỉnh trang Phần mộ.
Nhớ người góp công sửa chỗ đi về; Ghi người công đức sửa nơi thờ tự.
Mộ phần tu chỉnh, nghìn thu cựu tích tô bồi; Tự sở phong quang, sáu Phái cơ ngơi minh lộ.
Sưu tầm tài liệu, thi văn tuyển trạch, phụ lục dồi dào; Bổ túc di dung, thế thứ phân minh, Phái Chi đầy đủ.
HÔM NAY :
Sát cánh bên nhau, Trước bàn thờ Tổ.
Sắm hương hoa, một lễ chân thành; Tưởng công đức muôn phần ngưỡng mộ.
Nghe Chúc văn, lưu công đức muôn đời; Dõi sơ đồ, rõ quế hòe trăm nụ.
Cúi nguyện nghĩ: Vầng nhật nguyệt sáng rạng mười phương; Đức Tổ tông lưu danh muôn thuở.
Ngẩng cao trông: Phúc ấm nối đời, “Tế thần, thần tại'” giáng nơi Từ Đường; Cháu con thờ phụng, “Xuân kị Thu thường” đều kỳ cúng giỗ.
Thắp nén hương nghi ngút tại Gia đường, Đặt cành hoa ngạt ngào bên mộ Tổ.
Tấm lòng tôn kính, lễ bạc tiến nghinh; Văn tế nôm na, tấc thành biểu lộ.
Tưởng nhớ ân sâu Đấng Anh Linh, Tâm nặng nghĩa dầy Tiên Liệt Tổ.
Nguyện Hiếu, Trung, vì Nước vì Dân, Tròn Tình, Nghĩa với Đời, với Họ.
Mang Chính Tâm dạy cho con cháu, lấy Nhân Tín làm điều xử sự.
Người ở quê giữ phần hương khói chăm sóc Gia đường, tạo tôn phần mộ.
Kẻ đi xa khơi dòng ôn cố, dốc tâm dựng cơ đồ, rạng danh đất cũ.
CÚI XIN:
Lương tộc Lịch đại Tổ tiên từ cõi linh thiêng, Ân Đức dẫn đường giúp con cháu ngày thêm tiến bộ.
Để mọi người đạt thành may mắn; Cho toàn gia Khang Ninh Phúc Thọ.
Làng xóm mạnh giầu, Quốc cường, dân phú.
Khắp ngược xuôi, Hạnh phúc Yên Vui, dòng Lương tộc mãi mãi sáng danh; Đều trai gái, công đức ngàn trùng, giữ nếp gia tiên, khói hương muôn thuở.
Lòng thành kính bái, xin được chứng minh; Ước vọng dâng lên, kính xin tế độ.
Cúi xin Tiên Tổ chứng minh, phù hộ!
-Cẩn cáo-
[1] Mấy lần dự Giỗ Tổ tôi thấy các chú, các anh, các cháu ở quê sử dụng bài khấn có lẽ soạn từ đời các cụ ngang vai ông Nội tôi mà lại không hiểu nghĩa cổ nên trong xưng hô không chuẩn. Tham khảo các bài văn Tế, Khấn của các họ lớn, dựa vào bài Khấn bố tôi soạn trước kia và lịch sử dòng họ, từ năm 1999 tôi soạn bài văn Khấn giỗ Tổ cho phái Lào Cai, hằng năm có bổ sung, sửa đổi. Nay chỉnh sửa lại, đưa vào đây để quan viên họ tham khảo, sử dụng (thay ngày tháng năm cho phù hợp)
[2] Đúng ra việc Giỗ Tổ Ngành Hai là vào ngày 24 (có chỗ viết 29) tháng 5 (ngày kị của Tổ phụ Lương Công Tú) sau quan viên họ thấy tháng 5 bận thu mùa nên đã chuyển việc giỗ họ từ ngày kị Tổ phụ sang ngày kị Tổ mẫu (19/2).
[3] Thay đổi theo từng năm âm lịch bởi mỗi năm có một kíp quan Hành khiển khác nhau.
[4] Người hưởng Giỗ được thỉnh trước nhất.
[5] Vùng này trước là Xứ Bàng La 旁罗处, thế kỷ XIV thành huyện Bình Hà 平河 thuộc châu Nam Sách 南索. Vào năm Quang Thuận thứ nhất (光順元年, 1460) được tách thành hai huyện là Tân Minh 新明 và Bình Hà (nay là Thanh Hà của Hải Dương) thuộc phủ Nam Sách. Năm 1600 do kiêng húy Vua Lê Kính Tông (黎敬宗, 1588 – 1619) là Duy Tân 維新 nên Tân Minh đổi thành Tiên Minh 先明 thuộc trấn Hải Dương 海陽鎭. Năm 1853 bỏ phủ, giao huyện Thanh Hà 清河 kiêm nhiếp. Năm 1884 do kị húy tên Vua Hàm Nghi (咸宜, 1871-1943) là Nguyễn Phúc Minh 阮福明 nên đổi thành Tiên Lãng 先朗.
[6] Bộ Mộc 木 ghép với chữ Thủy 水 viết dưới dạng bộ 氵thành ra chữ Lương 梁, chỉ tên dòng họ.
[7] Khi Tổ lập nghiệp tại Hương Hạ là vào nửa sau thế kỷ XVIII. Đây là cuối thời “Lưỡng đầu chế” 兩頭制 với Vua Lê Chúa Trịnh (黎帝鄭王, 1545-1786). Lúc này cuộc tranh chấp Trịnh – Nguyễn (鄭阮紛爭, 1627-1774) còn gay gắt, loạn đảng khắp nơi
Lòng người đâu chẳng loạn ly,
Ếch kêu ác hiệp thiếu gì gần xa.
[9] Phả chép: Vào năm đói kém 家貧年奇 cùng với vợ (là Nguyễn Thị Lã ) đem theo 1 trai, 1 gái “bên nồi, bên con” gồng gánh vượt sông Văn Úc sang ở nhờ, làm thuê cho các gia đình họ Nguyễn, họ Mai vốn đã lập nghiệp ở Hương Hạ, tổng Cao Mật. Họ Nguyễn vô tự, Cụ nhận lời ủy thác 寄, để con trai (Nghệ) ở lại khai cơ tại đây, cụ trở về cố hương
[10] Vùng này nay thuộc Cấp Tiến huyện Tiến Lãng. Đây là điểm cuối của Nam Sách 南策 xưa, từng là thương cảng Domea (Đò Mè) của Đại Việt mang tên Trang Cảnh Thanh 煚清庄. Thời Trần (陳朝, 1225 - 1400) đổi thành Kinh Thanh 涇清 do chữ “Cảnh” trùng với tên Trần Cảnh (陳煚, 1218- 1277), tức vua Trần Thái Tông (陳太宗, 1225 – 1258, Thái thượng hoàng 太上皇, 1258-1277). Đến thế kỷ XIX đổi Kinh Lương 涇涼 và nay là xã Cấp Tiến. Đây là quê (Đăng Lai 登來) Thượng Tổ họ ta trước khi sang lập nghiệp bên Cao Mật và cũng là quê (Quan Bồ 關蒲) của Ngoại tổ.
[11] Các thôn, xã thuộc Tổng Cao Mật xưa tính từ thượng lưu xuống là: Kim Côn 今崑, Côn Lĩnh 崑嶺, Mông Tràng Thượng 蒙場上, Hương Lạp 香粒, Mông Tràng Hạ 蒙場下, Cốc Tràng 谷場, Tôn Lộc 尊祿 và Cao Mật 高密.
Trong đó ban đầu làng ta là Hương Lạp香粒. Năm 1883, vì húy tên dưỡng mẫu Vua Kiến Phúc (建福, 1869-1884) là Nguyễn Thị Hương 阮氏香 nên “Hương” phải đổi ra “Phương” 芳 theo hướng thay chữ chuyển âm nhưng vẫn giữ lại nghĩa thành Phương Lạp芳粒. Năm 1966 nhập với Mông Tràng Hạ thành thôn Phương Hạ.
[12] Bà Cả là người cùng làng, thạo việc, quán xuyến giỏi, không con nhưng rất ghen, không cho chồng lấy vợ lẽ.
Tương truyền: Cụ Đồ Thiệu lập kế, cho người nhà ra cày ruộng của cụ Tú và nói rằng: “anh chị không người nối dõi, ruộng để em làm, không người ngoài họ lấy mất, phí đi”. Cụ Cỏn (Nhượng) biết chuyện, bực quá mới thề rằng: kể cả người ăn kẻ ở, nếu người này có con sẽ lấy làm thiếp cho cụ ông. Ba bà sau đều là tá điền, ngủ với cụ ông sinh con.
[13] Nam là Xưng, Hanh, Lân, Mã, Ly, Phượng rồi sinh ra 14 nam đời thứ Tư, đều là Lương Đức.
Tôi thuộc đời thứ 7 tính từ Thủy Tổ, đời thứ 6 tính từ Tổ Chi và là con bố Thân, cháu ông Trính, chắt cụ Trinh, chút kỵ Hanh, chít cố Tú.
[14] Phái con cháu cụ Trính lên Lào Cai tháng 2/1964.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!