[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


11 tháng 4 2019

MỘT SỐ NỘI DUNG ĐÃ BIẾT VỀ HỌ PHẠM CHÍNH LÝ

A. QUÊ HƯƠNG:
Hà Nam là vùng đất cổ mà thời Hùng Vương thuộc bộ Giao Chỉ. Thời Bắc thuộc ranh giới và địa danh không mấy đổi thay.
Dưới thời Lý (李朝, 1009–1225) vùng này là châu Lị Nhân 蒞仁  từng là nơi dựng hành cung của Lý Thái Tông (李太宗, 1000-1054), Lý Nhân Tông (李仁宗, 1066-1127). Đời Trần (陳朝, 1225-1400) cũng gọi là châu Lị Nhân. Thời thuộc Minh là huyện Lị Nhân thuộc phủ Giao Châu. Đời Lê (後黎朝, 1428–1527) kiêng tên húy Lê Lợi  黎利  vẫn viết Lị  không phải đổi chữ. Đời Lê Thánh Tông (黎聖宗, 1442-1497) đổi là phủ, thuộc Sơn Nam thừa tuyên. Thời Nguyễn (阮朝, 1802-1945), khi thành lập tỉnh Hà Nội (河內省, gồm 4 phủ, 15 huyện) vào năm 1831, Minh Mạng  (明命, 1791 -1841)  “đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội”.
Năm 1886, sau khi chiếm hoàn toàn Bắc kỳ, Pháp thành lập mới hàng loạt cáctỉnh trong đó có Hà Nam 南定, trên cơ sở phủ Lý Nhân 蒞仁được mở rộng thêm vào ngày 20/10/1890 bởi Nghị định số 569 của toàn quyền Đông Dương.  Đất mở rộng gồm phủ Liêm Bình 廉平(gồm các huyện Nam Xang, Thanh Liêm, Bình Lục), 17 xã của huyện Vụ Bản 務本và Thượng Nguyên 上元 (Nam Định 南定) cùng hai tổng Mộc Hoàn và Chuyên Nghiệp của huyện Phú Xuyên富川thuộc tỉnh Hà Nội. Như vậy Hà Nam khi mới thành lập là địa bàn của phủ Lý Nhân mở rộng về phía Hà Nội và Nam Định. Lúc này Hà Nam có 5 huyện là Kim Bảng 金榜, Thanh Liêm 清廉, Lý Nhân 蒞仁, Bình Lục 平陸và Duy Tiên 维先.
Năm 1965, Hà Nam và Nam Định sáp nhập thành tỉnh Nam Hà, 10 năm sau, nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, chia tách thành Nam Hà và Ninh Bình. Năm 1997 Nam Hà chia tách thành Hà Nam và Nam Định. Lúc này Hà Nam gồm 5 huyện là Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Lý Nhân, Bình Lục và thị xã Phủ Lý với 114 xã, phường, thị trấn.
Lý Nhân là một huyện được lập cùng thời khi lập tỉnh Hà Nam 河南(1890) và mang tên huyện Nam Xang bao gồm các Tổng: Văn Quan 文關, Mạc Xá 幕舍, Trần Xá 陳舍, Vũ Điện 禹甸, Ngu Nhuế 虞芮, Công Xá 公舍, Thổ Ốc 土沃, An Trạch 安宅, Đồng Thuỷ 潼水. Ngày 31/3/1923, huyện Nam Xang lấy tên Lý Nhân 里仁.
Sau nhiều lần tách nhập nay là huyện thuần nông nằm ở phía đông bắc Hà Nam, là giao điểm của bốn tỉnh Hà Nam, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình. Phía đông huyện giáp tỉnh Hưng Yên và Thái Bình, phía nam giáp tỉnh Nam Định, phía tây giáp huyện Bình Lục, phía bắc giáp huyện Duy Tiên. Huyện nằm giữa hai con sông lớn là sông Hồng và sông Châu Giang.
Lý Nhân bao gồm thị trấn Vĩnh Trụ và 22 xã: Bắc Lý, Chân Lý, Chính Lý, Công Lý, Đạo Lý, Đồng Lý, Đức Lý, Hòa Hậu, Hợp Lý, Nguyên Lý, Nhân Bình, Nhân Chính, Nhân Đạo, Nhân Mỹ, Nhân Hưng, Nhân Khang, Nhân Nghĩa, Nhân Thịnh, Phú Phúc, Tiến Thắng, Văn Lý, Xuân Khê.
 Lý Nhân có một số di tích lịch sử và di tích văn hóa được Nhà nước xếp hạng. Đó là đền Trần Thương (xã Nhân Đạo), đền Bà Vũ (xã Chân Lý), đình chùa Cao Đà (xã Nhân Mỹ), khu tưởng niệm nhà văn liệt sĩ Nam Cao tại xã Hòa Hậu. Đây là những địa điểm hấp dẫn khách du lịch đến Lý Nhân. Lao động của huyện chủ yếu sống bằng nghề nông kết hợp với một số ngành nghề truyền thống như dệt, sản xuất đồ mộc, làm bánh đa nem...
Chính Lý nguyên là tổng Mạc Xá幕舍gồm 2 xã nhỏ Mạc Xá thượng 幕舍上và Mạc Xá hạ 幕舍下thuộc huyện Nam Xang南昌, phủ Lý Nhân里仁 tỉnh Hà Nội河內năm 1831, sau 1890 thuộc tỉnh Hà Nam 河南.
Hiện nay xã gồm 22 Xóm, nằm phía Tây Bắc huyện, là xã thuần nông, Đạo-Đời đan xen. Phía Bắc giáp huyện Duy Tiên, Phía Tây giáp xã Hợp Lý, Văn Lý của huyện Lý Nhân, phía Nam giáp huyện Lục, phía Đông giáp xã Nguyên Lý và Công Lý của Lý Nhân. Do nằm giữa hai con sông lớn là sông Hồng (bên kia là Đông Hưng, Thái Bình) và sông Châu Giang (bên kia là quê ngoại Duy Tiên). Do vậy trận lụt vỡ đê năm Canh Tuất 12/7/1910 làm ngập trắng huyện và dân Chính Lý phải vào đồng lập ra xóm mới!
B. HỌ HÀNG:
Họ Phạm Việt Nam 越南范氏 xuất hiện đồng thời với các họ khác trên lãnh thổ Việt Nam cách đây hàng mấy ngàn năm với nhiều dòng khác nhau. Ngay cả vùng Hà Nam hay hẹp hơn là trong Họ Phạm huyện Lý Nhân các chi phái cũng chưa đâu (và không bao giờ) tìm được Thủy Tổ chung.
Do Gia phả thất lạc nên họ Phạm gốc Xóm 8 Chính Lý không tìm được Viễn Tổ, Ngũ Đại Tổ (tính từ đời Phạm Ngọc Hồng) và từ đâu đến lập nghiệp tại đây.
1. Xác định Đời thứ Nhất là Tổ Bốn đời Phạm Văn Mẳn (kị 30/8), Cụ bà Đỗ Thị Diễm (kị 26/6). Nhà nghèo, mất đã lâu, mộ đặt ở nghĩa địa rìa Xóm 8 ngoài cánh đồng, nhưng không ai nhớ chính xác là mộ nào.
Ngày 27/6 Bính Tuất (Thứ Bẩy 22/7/2006) lần đầu tiên tổ chức giỗ Cụ bà tại nhà Liệt sĩ Phạm Văn Ngữ (Trưởng thế). Đông con cháu, cả cháu ngoại 3 đời về dự. Đã tính đến chuyện xây Từ đường, xây lại mộ Tổ. Nhưng không xác định chính xác được đâu là mộ cụ bà đâu là mộ chồng bà Nhường nên quan viên họ đành chịu.
2. Đời thứ Hai: Cụ Phạm Văn Mẳn sinh 4 nữ, 2 nam là: P.T.Long, P.Văn Tuệ (Kị 06/10), P.T.Nhường, P.Văn Báu, P.T.Tý và P.T. Tỵ .
3. Đời thứ Ba:
P.T.Long lấy chồng họ Trần sinh Hoan, Hoàn, Chức, Quyền, Sang. T.V.Quyền sinh T.V. Đoàn, T.V. Thể, T.V. Dân, T.T. Hà chuyển lên Xuân Quang, Bảo Thắng ở từ 1974. T.T. Chức sinh Cảnh, Sáng ở lại quê. T.V.Sang lên Cam Đường, Lào Cai từ lâu sau chuyển Hà Nội; còn T.V.Quân ở Tổ 7 Bình Minh, tf Lào Cai; Ân, Huy, Hiệu, Trường đều ở Hà Nội.
P.Văn Tuệ có 2 vợ: bà cả là Trần Thị Liễu sinh ra P.Văn Hướng (vô tự), P.Văn Hường, bà hai là Nguyễn Thị Hồi sinh ra P.Văn Ngữ.
P.T. Nhường lấy chồng cùng quê là N.V.Ninh sinh 2 Nam (Rượu, Nhiệm), 1 nữ (Nhị) đều ở Xóm 8.
P.T. Tý lấy chồng làng bên là Nguyễn Phúc Khang sinh một nữ là Phương, 1 nam là Khai làm nghề dạy học tại quê.
P.T. Tị: Mất tích từ 1946.
P.Văn Báu có 2 vợ: bà cả là Trần Thị Sảnh sinh ra P.V. Hiển, bà hai là Nguyễn Thị Sảng sinh ra P.V. Hiền, P.T. Lành, P.V. Viễn, P.T. Tư.
Các cụ còn người con nuôi họ Đỗ, con cháu ở ngay quê.
4. Đời thứ Tư :
Nội tộc: P.Văn Hướng (vô tự), P.Văn Hường, P.Văn Ngữ - P.V.Hiển, P.V. Hiền, P.V. Viễn.
Ngoại tộc: con các bà, mang họ Trần, họ Nguyễn.
Trên Lào Cai có Chú Hiền và cô Tư ở Xuân Quang Bảo Thắng! Ngoài ra còn có con cháu bác Quyền, bác Sang ở Cam Đường, Xuân Quang; chú Phương, chú Khai con bà Tý ở Tằng Loỏng. Trừ chú Hiền, cô Tư luôn giữ quan hệ còn mấy bác, mấy chú kia tuy ở Lào Cai ít qua lại!
Các chú Hiển, Lành, Viễn (anh ruột cô Tư), Chú Rượu, Nhiệm, Nhị (con bà Linh, cô ruột bố) vẫn ở quê.
5. Đời thứ Năm:
Chi Trưởng: Phạm Ngọc Hồng, Phạm Văn Mạnh, Phạm Văn Cửu, Phạm Thị Cậy, Phạm Thị Mến, Phạm Thị Tám, Phạm Thị Bình.
Phạm Văn Duyên, Phạm Văn Tiên, P.T. Huê là con Phạm Văn Ngữ.
Chi Thứ: Con chú: Hiển (Bắc Giang), Hiền (Xuân Quang), Viễn (quê).
6. Đời thứ Sáu:
P. V. Hiến, P.V.Cường, P.V.Minh, P.V.Tú, P.V.Tài, P.V.Tiến...và các em cháu chú Hiền ở Lào Cai, cháu chú Ngữ, chú Viễn ở quê,...
7. Đời thứ Bẩy:
Cháu của P.V. Hồng, P.V. Mạnh, P.V. Duyên, P.V. Tiên,  ...  
C. Về cụ Phạm Văn Hường
1. Cụ quê Xóm 8, Chính Lý, Lý Nhân, Hà Nam. Hầu như cả làng theo Đạo Thiên chúa. Bà mất khi bố mới 2 tuổi nên bố lúc thì sang bà Ninh, khi thì tới ông Báu và sau đó thì ở với dì ruột là bà Điều. Chính bà Điều là người làm phép cho bố có Đạo. Nhưng sau khi bà mất, bố trở lại “Đời” như trước. Chính vì chuyện “Đạo, Đời” thiếu ổn định này và lại thêm ông bà mất sớm nên bố ít nhớ chi tiết về gia tộc. Qua nhiều lần gợi chuyện, chắp nối lại tôi mới dựng được Phả hệ Phạm tộc từ đời cụ Tứ đại. Ngay như ngày mất của cụ Phạm Văn Tuệ, bố bảo là 13/10 nhưng ở quê lại nói là 06 (?).
Cuộc đời bố rất vất vả. Lớn lên đã không biết mặt cha mẹ. Năm 19 tuổi bị tai nạn quay mía khi làm du kích cụt 1/3 trên cánh tay Trái. Ở quê khó khăn, năm 1967 đưa gia đình lên Chính Tiến, Gia Phú khai hoang (Lúc đó mới có Hồng, Cậy, Mến, Mạnh, Tám). Khi thành lập Nông trường Phú Xuân vào Nông trường được một năm thì nghỉ do già yếu. Thời đắp đập Chính Tiến, hồ ngập nước đi lại rất khó khăn. Vừa tạm ổn thì cuộc chiến 2/1979 nổ ra, cả nhà dắt díu nhau về quê nương nhờ bên ngoại ở Duy Tiên. Khi yên cuộc, trở lên Lào Cai làm lại từ đầu.
Đến năm 1984 con trai cả là Hồng mua nhà cho các cụ chuyển ra Xuân Tư thì đi lại có dễ hơn. Trong trận mưa lớn hè 1995 do sạt đồi, trôi mất cả nhà (may mà không ai việc gì) , một lần nữa lại “trắng tay”!. Hai cụ làm lều vẫn bám trụ. Sau một "chiến dịch" dài của các con, bố mẹ mới ra ở với con cả.
Ông mắc bệnh Hen Phế quản mãn tính. Khi tôi về làm rể đã thấy nặng rồi. Nhưng cụ rất tham việc và ham làm trực tiếp, ít muốn chỉ huy. Nghe kể hồi ở quê chuyên đi chợ. Dịp 1985 đi công tác Bát Xát tôi mua 100 ống Adrenalin về để cụ dùng dần! (hồi đó thuốc men hiếm lắm).  Sau này tôi có dùng một đợt Pretnisolon kéo dài được một thời gian. Tháng 7/1996 người mệt nặng. Chính vì việc này nên tôi hay phải về do đó tôi đã kí sẵn 04 tờ Thông báo kết luận giám định Giấy Hải quan. Lợi dụng 4 tờ này VQV và TQH đã làm bậy. Nhờ có  bạn bè giúp, phát hiện sớm, trình bày trung thực nên tôi không bị kỉ luật chỉ mất CSTĐ.
Sáng Thứ Hai ngày 23/9/1996, nhận điện thoại, vợ chồng tôi về và đến nhà lúc 6 giờ, bố đã không nói được gì. Người tắt thở lúc 8 giờ kém 16 phút (Thu phân ngày 11 tháng Tám năm Bính Tý). Không biết vì lí do gì mà anh Hồng bảo bố thọ 79, theo tôi chỉ 74, 75 tuổi.
Ngày 20 tháng mười Một Canh Thìn (15/12/2000) đã cải táng. Mộ xây cạnh nơi hung táng có gắn bia, ảnh. Việc gắn ảnh lúc đầu mọi người chưa thông (vì chưa có "phong trào"), sau xuôi! Ốp gạch ngày 17/12/2003 (24/11 Quý Mùi) đúng năm Hải Thương nhập học HVCS
Trong dịp giỗ lần thứ 10 (11/8/Bính Tuất 2006) hậu duệ của cụ Long ở tf Lào Cai và xã Xuân Quang đến dự.
2. Anh em:
Bà nội vợ tôi là Trần Thị Liễu sinh được 2 anh em. Vì bác Hưởng mất sớm, nên vợ tôi không có anh, chị họ 2 đời.
Bà Hai là Trần Thị Hồi sinh ra chú Ngữ, có lên Lào Cai ở và chơi sau về quê và mất 18 tháng Chạp năm Đinh Mùi (17/01/1968).
Bà sinh một trai là Phạm Văn Ngữ, đi bộ đội lái xe Đoàn C20 - BQP ở quê và hi sinh ngày 14/02/1967 (06/Giêng/Đinh Mùi) tại Quảng Bình. Thím Huệ vẫn ở vậy nuôi 3 con là Duyên, Tiên, Huê.
Sau thời gian tìm kiếm, con trai chú đã tìm được phần mộ. Chiều 10/12/2014 (19/10 Giáp Ngọ) làm lễ cất bốc tại Nghĩa trang Liệt sĩ Kỳ Anh, Hà Tĩnh đưa về quê.  Sáng 11/12/2014 (20/10 Giáp Ngọ) tại Chính Lý, Lý Nhân, Hà Nam làm lễ truy điệu và an táng trong Nghĩa trang Liệt sĩ quê nhà.
Như vậy:
1. Con cháu ông Hường thuộc dòng trưởng của Cụ Tổ lập ra họ Phạm Chính Lý. Chú Duyên ở quê cúng giỗ là Trưởng thế!
2. Giống như quê hương, nhà ta cũng Đạo-Đời xen kẽ nhưng việc thờ cúng Tổ tiên bên Đạo nay cũng rất cẩn trọng (qua đám tang bà Cầm)! Trách nhiệm thuộc về Trưởng, dù còn nhỏ, vai vế thấp vẫn là “trưởng” đó là trời bầu!
3. Còn sống, bố nghèo quá, lại yếu, mất một tay nên tự ti không tổ chức cúng giỗ chứ không phải ông không muốn tìm về cội nguồn! Tôi dựng được Phả đồ họ ta là do nhiều lần về, gợi hỏi, (rất khó nghe do cụ thều thào) rồi chép lại, có đối chiếu lịch sử và hỏi mọi người!
4. Cả họ chỉ truy tìm được đến cụ Mẳn, suy tôn cụ là Tổ Nhất nên khi cúng xưng là Hậu duệ tôn và gọi các cụ là:
- Đệ Nhất đại Tổ: Phạm Văn Mẳn, Tổ tỉ Đỗ Thị Diễm.
- Đệ Nhị đại Tổ:
 + Phạm Văn Tuệ, Tổ Tỉ Trần Thị Liễu, Nguyễn Thị Hồi;
+ Phạm Văn Báu, Tổ Tỉ Trần Thị Sảnh, Nguyễn Thị sảng.
- Đệ Tam đại Tổ: Phạm Văn Hường, Tổ Tỉ: Đỗ Thị Phường.
- Đệ Tứ đại: Phạm Ngọc Hồng.
Ghi chú: Nếu PV Hiến khấn thì Tam tổ gọi là Tổ khảo Phạm Văn Hường, Tổ Tỉ: Đỗ Thị Phường;….
- Nếu PV Mạnh, P.V.Cửu  khấn thì Tam tổ gọi là Hiển khảo Phạm Văn Hường, Hiển Tỉ: Đỗ Thị Phường;….
 -Rể thứ Lương Đức Mến, soạn ngày Tiên thường nhạc phụ Mậu Tuất 2018-

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!