[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


13 tháng 6 2013

Cùng là ĐÀO LÝ mà thành khác nhau

Sáng thứ Hai, ngày 10/6/2013 trên Facebook (http://www.facebook.com/men.phamthi/posts/540555766007060) tôi viết câu này:
Ai hay khi ném trái Đào,
Để cho trái Mận rơi vào tay ta.!
Sau đó nhận được một số comment (bình luận) tôi đã trả lời nhanh bằng comment và cả điện thoại, nay xin giải thích rõ:       
Gốc của quan hệ nhân quả trên từ mối quan hệ “Đào-Lý”. Nguyên trong Kinh thi 詩經[1] có câu :  “投我以桃,報之以李”(Đầu ngã dĩ đào báo chi dĩ lý), nghĩa là “Ném cho ta quả đào, báo lại ta sẽ cho quả mận”. Tuy cùng lấy ý từ đây nhưng trong thơ văn chữ Hán và thơ văn chữ Nôm lại được dùng với ý hơi khác nhau:
Hán văn nói 投桃“Đầu đào báo lý” là chỉ quà tặng, đồ biếu xén lẫn nhau.
Còn trong văn Nôm, “lý” chỉ cây “mận” nên “đào-mận” chỉ quan hệ qua lại nam nữ. Như Truyện Kiều câu thứ 1289 là 𣋽桃最槾燐: (Sớm đào tối mận lân la) là chỉ ý sớm tối tình tự, dan díu với nhau.
Chú ý trong Truyện Kiều câu số 1741: 𠊝桃李 (Xót thay Đào Lý một cành) thì chữ “Đào, Lý” lại là cây đào, cây mận chỉ người phụ nữ đẹp khi cụ Nguyễn xót thay cho nàng Kiều xinh đẹp mà bị trận đòn ghen tơi bời như gió táp mưa sa của Hoạn Thư (vợ Thúc Sinh).
Do vậy câu tôi viết trên FB, trong bối cảnh quanh tôi cuối tháng 5 đầu tháng 6/2013 có thể hiểu nôm na thế này:
1. “Có đi có lại mới toại lòng nhau”;
2. “Ông mất chân giò, bà thò chai rượu”;
3. “Ông ăn chả, bà ăn nem”;
4. “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”;
5. “Không dưng ai dễ đem phần đến cho”;
    …
 Chữ nghĩa vốn “ý tại ngôn ngoại” nên cần xem đến “ngữ cảnh” nữa!





[1] Là bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, gồm 311 bài thơ với nguồn gốc khá phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã nhạc triều đình của các tác giả thuộc mọi tầng lớp xã hội. Từ dân gian được chuyển thành văn, Kinh Thi đã trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn công phu, từng được coi là “sách giáo khoa” toàn xã hội, luôn được các học giả truyền tụng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!