Tự dưng “Nẩy” ra ý đinh soạn (lại) bài này vì vừa về Yên Bái dự ĐH (giữa nhiệm kỳ) Hội Cựu CAND tỉnh Lào Cai sau sáp nhập (đúng ra là ĐH đột xuất lại được gọi như thế) và nguyên BT tỉnh Yên Bái trước sáp nhập đã được bầu làm PTT, mà là nữ PTT Đầu tiên của VN.
1. Ngày trước:
Thời sinh viên,
mỗi năm đi qua Yên Bái ít nhất 4 bận và toàn đi bằng Xe lửa nên thấm câu: “thò
tay ra ngoài cửa sổ tầu nếu thấy mưa, đó là Yên Bái”!
Buổi đầu công tác và bước vào quan trường, 10 năm sống ở Yên Bái (với tư cách là tỉnh lị của tỉnh hợp nhất
Hoàng Liên Sơn) tôi có lắm kỷ niệm về công tác cũng như chuyện riêng tư.
Tháng 11/1991 trở lại Lào Cai, nhưng vẫn nhớ Yên Bái bởi: “Lào Cai là tỉnh của ta, Dưới kia
Yên Bái hóa ra tỉnh mình” nên mỗ, nhiều đồng liêu hay cỡ em tôi bị gẫy
cánh,... tôi đã “giật mình”!.
Gần đây, vụ việc “chấn động”
mà “70 năm dân chủ cộng hòa” mới thấy lần đầu lại càng “giật mình” hơn!
Nhưng đến khi rối lên về những “biệt phủ”,
“bắt phóng viên nhận tiền tại trận”,... tôi không thể giật mình nổi nữa mà thấy
nhói trong tâm nên âm thầm đi tìm hiểu về nguyên cớ và cách khắc chế, dù chả ai
khiến !!!
Những nguyên nhân và giải pháp về chính trị, đạo đức và vân vân gì đó nhiều người đã mổ xẻ
và nó cũng chả thuộc phạm vi quan tâm, tìm hiểu của tôi nên tôi chỉ xem lướt
qua để biết mà... để đấy!!! Chỉ biết hồi đó thấy vùng này xa thật là xa và thổ cư khá rẻ!
Tôi đi tìm, lý giải và …theo hướng khác!
2. Lần lại lịch sử:
Vùng đất “cửa ngõ lên Tây
Bắc” nước ta thuở đầu của nền quân chủ
(Ngô, Đinh, Tiền Lê) thì các
châu cơ mi (羈縻, ràng giữ nhưng buông thả nhằm duy trì để cho không đến nỗi tuyệt hẳn),
các động vẫn do các tù trưởng, hậu duệ của người Âu Việt 甌越
cai quản.
Khi thay nhà
Tiền Lê, nhà Lý (李氏,
1009-1225) dời đô ra Đại La (1010), nhân khi nước Đại Lý (vùng Vân Nam bên Trung Quốc nay) suy yếu,
năm 1159 vua Lý Anh Tông (李英宗
, 4/1136 – 14/8/1175) cùng Tô Hiến
Thành (蘇憲誠, 2/1102 – 7/1179) chinh Tây 征西, đã thu phục các tù trưởng dân tộc
thiểu số ở vùng này và nhập vùng đất đó vào địa đồ Đại Việt (大越,
1054 – 1400, 1428 – 1804). Trong 12 lộ
路, 6 phủ 府,
25 châu 州 mà Lý Thánh Tông (李聖宗, 1054-1072)
định ra khi đổi quốc hiệu là Đại Việt 大越
chép ở Toàn thư (大越史記全書, in lần đầu vào niên hiệu Chính Hòa (正和,
1680–1705) năm thứ 18 đời vua Lê Hy Tông (黎熙宗, 3/1663 – 4/1716)
năm 1697) thì châu Chân Đăng 真登州
(hay đạo Lâm Tây 林西道) có đất Lào Cai (bao gồm cả Yên Bái) nay.
Tháng 6 năm Quang Thuận thứ bảy (1466), Lê Thánh Tông đặt 13 đạo thừa tuyên có thừa tuyên Hưng Hóa 興化承宣 bao gồm đất đai các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình,
Yên Bái, Lào Cai (trước 01/7/2025). Sau đó vùng này được đổi là xứ Hưng Hóa (1490) rồi trấn Hưng Hoá (1800s).
Đến năm Tân Mão 辛卯 1831, Minh Mạng (明命,
1791 – 1841) lập tỉnh Hưng Hóa 興化省 và đây là một trong số
13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ (Bắc kỳ Thập Tam tỉnh 北圻十三省), là cấp hành chính cấp trên của các
huyện thuộc Yên Bái nay và từ đó tên gọi Bắc Kỳ thay cho danh xưng Bắc Thành cũ. Các tỉnh khác cấu thành Bắc kỳ thành lập dịp này là: Hà
Nội, Sơn Tây, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Dương,
Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Nguyên.
Đến khi hoàn thành việc bình định quân sự,
người Pháp phân chia lại khu vực hành chính và cho thành lập các tỉnh
dân sự. Các địa phương thuộc tỉnh Hưng Hoá (cũ) liên tiếp được tách ra thành lập:
tỉnh Chợ Bờ (18/3/1891, tức tỉnh Mường,
sau đổi thành tỉnh Hòa Bình), tỉnh Yên Bái (1895, chính thức 11/4/1900), tỉnh Vạn Bú (1895, sau đổi thành tỉnh Sơn La vào 23/8/1904) và tỉnh Lai Châu (tháng 6 năm 1909). Ngày 5 tháng 5 năm
1903 phần còn lại của tỉnh Hưng Hóa được đặt tên thành tỉnh Phú Thọ (05/5/1903); riêng vùng Lào Cai được chuyển
từ Đạo Quan binh 4 thành tỉnh dân sự vào ngày 12/7/1907.
Trong đó, ngày 11/4/1900, Pháp lấy các hạt Bảo Hà, Nghĩa Lộ, Yên
Bái của tỉnh Hưng Hóa cũ và châu Lục Yên của tỉnh Tuyên Quang để lập tỉnh Yên Bái với tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái, tổng Bách Lẫm (huyện Trấn Yên).
Như vậy danh xưng “Yên Bái” chính thức ra đời, chỉ đơn vị hành chính cấp tỉnh từ năm 1900!
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Yên Bái cùng với Lào Cai và một phần
Nghĩa Lộ hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Sau 15 năm chung sống, đến 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Yên Bái được tái lập từ tỉnh Hoàng
Liên Sơn (trừ 2 huyện là Bảo Yên và Văn
Bàn vốn trước thuộc Yên Bái, chuyển sang Lào Cai).
Kể từ ngày hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, 27/12/1975 tới
khi tách ra 2 tỉnh, ngày 12/8/1991 là 15 năm nhưng đến 1981 tôi mới chuyển lên
tỉnh nên chỉ tính 10 năm (1981-1991). Nói thêm rằng khi đó, tỉnh Hoàng Liên Sơn có tới 17 huyện, thị với tỉnh lị lúc đầu đặt
tại Lào Cai, tới tháng 8/1978, do tình hình biên giới căng thẳng, các cơ quan
của tỉnh chuyển về về Thị xã Yên
Bái. Trong LLCA, Bộ Nội vụ
có Quyết định số 339/NV-QĐ ngày 28/01/1976 thành lập Ty CA Hoàng Liên
Sơn và đó là thời kỳ CA cấp tỉnh có nhiều cấp phó nhất !.
Trong quyết định này Ty CA có 20 phòng, ban. Bộ phận Kỹ thuật hình sự
thuộc Phòng Trinh sát kĩ thuật và là lực lượng An ninh.
Thực chất đến 03/01/1976 mới được thành lập trên cơ sở sáp nhập các tỉnh Lào
Cai, Yên Bái và các huyện Mù Căng Chải, Văn Chấn, Trạm Tấu, Than Uyên của tỉnh
Nghĩa Lộ (riêng 2 huyện Bắc Yên và Phù
Yên trở về tỉnh Sơn La quản lý)
Từ sau 01/7/2025 nơi đây thành Phường, trở thành tỉnh lị của
tỉnh Lào Cai (mới) bởi trung tâm tỉnh sau sáp nhập đóng tại thành phố
này (phường Yên Bái). Đây cũng là thời điểm chấm dứt vai
trò “thành phố biên cương tỉnh lị” của thành phố Lào Cai mà chuyển thành 2 phường (Lào
Cai, Cam Đường) cùng 2 xã (Hợp Thành, Cốc San).
3. Ngẫm về danh xưng: Chưa tìm được tư liệu thành văn về nguyên do và ý nghĩa của địa
danh nên không hiểu sao, năm 1900 khi tách từ tỉnh Hưng Hóa (1831- 1903) ra, lại đặt tên tỉnh này là
YÊN BÁI (安沛省), tên một làng xưa thuộc Tổng Bách Lẫm, Huyện Trấn Yên, Tỉnh Hưng Hóa.
3.1. Từ 2 thành tố cấu thành địa danh:
- Chữ 安 (yên):
+ Có nghĩa là: Yên, như “bình an” 平安,
“trị an” 治安, v.v.; Ðịnh, không miễn
cưỡng gì gọi là “an”. Như “an cư lạc nghiệp” 安居樂業
yên ở vui với việc làm; Làm yên, như “an phủ” 安撫
phủ dụ cho yên, “an ủy” 安慰 yên ủi; Tiếng giúp lời.
Nghĩa là Sao vậy, như “ngô tương an ngưỡng” 吾將安仰
ta hầu ngưỡng vọng vào đâu ? “Nhi kim an tại” 而今安在
mà nay còn ở đâu ? ; Ðể yên, như “an trí” 安置
để yên một chỗ, “an phóng” 安放 bỏ yên đấy.
+ Nó có mã là U+5B89, thuộc bộ “miên” 宀, hành Thổ 土, tính Cát 吉
- Chữ 沛 (bái)
+ Có nghĩa là: Bãi cỏ, chỗ vũng nước mọc cỏ, đất bỏ hoang mọc cỏ
gọi là “phái”; Chảy sầm sầm. Như “phái nhiên hạ vũ” 沛然下雨 (Mạnh Tử 孟子) mưa xuống sầm sầm. Phàm
nói cái gì khí thế đầy rẫy mạnh mẽ đều gọi là “phái” hay “sung phái” 充沛; Ðiên bái, gặp sự hoạn nạn, vì hoàn cảnh làm nghiêng ngửa gọi
là “điên phái” 顛沛; Nhanh chóng; Lụn, đổ,
ta quen đọc là chữ “bái”.
+ Nó có mã là U+6C9B, thuộc bộ “thủy” 水, hành Thủy 水, tính Cát 吉, tổng 7 nét.
3.2. Như thế:
- Đây là một cái tên không đẹp, không hướng tới sự ổn định, phát
triển mà còn bao hàm ý bất ổn, điềm không may đến dồn dập!
- Ngay trong cái tên đã biểu hiện sự xung khắc: mặc dù có nước
(thủy) thì đất (thổ) mới có giá trị trồng trọt nhưng đất đắp bờ ngăn nước song
nước quá mạnh lại phá bung bờ, bung đập!
Thế mới biết, cái tên không phải chỉ để gọi!
Viết đến đây, chợt giật mình nhớ lại: theo Hồi kí của một vị
nguyên lãnh đạo tỉnh HLS thì ban đầu khi bàn “hợp tỉnh” đã từng có những phương
án đặt tên tỉnh hợp nhất như sau: Hoàng Liên Sơn (với nghĩa 3 tỉnh đều cùng chung dây mạch dãy núi HLS), Hồng Hà (con sông chẩy qua Lào Cai, Yên Bái),
Hưng Hóa (tên thời Lê Nguyễn là địa phận
của 3 tỉnh) hoặc Lào Yên Nghĩa (ghép
chữ đầu 3 tỉnh dạng Hà Nam Ninh) hay Cai Bái Lộ (ghép chữ sau của tên 3 tỉnh!).
Cuối cùng cái tên Hoàng Liên Sơn được chọn (quyết định là của cụ Trường Chinh), là một trong 35 tỉnh và 3 thành
phố hồi đó. Nếu hồi 1976 mà chọn cái tên CAI BÁI LỘ thì không biết quê tôi sẽ
ra sao!?
4. Tôi tin vào tương lai:
Theo Báo cáo số 1809/BC-BTNMT ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thì đến 01/4/2014, Yên Bái có diện tích 6.886,3 km2, dân số 771.600 người và là tỉnh
có tiềm năng phát triển kinh tế, tiềm năng du lịch, nhiều yếu tố thuận lợi về
con người-xã hội
Đặc biệt trong quá trình lịch sử, nơi đây luôn là vùng đất có tầm
chiến lược đặc biệt quan trọng, cửa ngõ lên Tây Bắc (vùng Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai), như “giậu” như “phên”
án ngữ, che chắn cho trung châu, đồng bằng và Kinh đô; như “Then” làm “chốt” giữ
cửa vào vùng địa linh!
Nhưng: “Cái tên nó vận vào rồi, Phải dùng lý số tìm người mà
thay!”
Người ấy, theo tôi:
- Không quá vượng “Thổ”, “Thủy” bởi như thế sẽ “vượng” quá mà
cái gì quá ắt tiêu! Đơn giản là ham chiếm đất, đào ao là “quá vượng” rồi lại
làm nhà lớn, xấy biệt phủ là “vượng mộc” mà MỘC LẠI KHẮC THỔ!
- Nhưng người đó không được “khắc” Thổ và Thủy!
- Lại không thể:
+ Mang mệnh Hỏa được, bởi tuy “Tro tàn tích lại đất vàng thêm” tức
Hỏa sinh Thổ nhưng lửa lại bị nước dập tắt (Thủy
khắc Hỏa);
+ Cũng không thể mang mệnh Mộc được, bởi tuy “Nhờ nước cây xanh
mọc và lớn lên” tức Thủy sinh Mộc nhưng rễ cấy đâm xuyên vào đất (Mộc khắc Thổ); Mộc còn ham phá rừng nữa!.
- Vậy người đó chỉ có thể mang mệnh KIM! Lòng đất tạo nên Kim loại,
tức Kim tạo ra từ Thổ; Kim loại vào lò chảy nước, tức Thủy do Kim sinh! Hợp quá
còn gì!!!
Đặc biệt nữa là “kim” gợi nhớ hình tượng “THIẾT DIỆN VÔ TƯ”, CẦN
LẮM MỘT QUAN ĐẦU TỈNH NHƯ VẬY TRONG LÚC NÀY!
5. Tôi không tuyên truyền cho duy tâm, không “gái góa lo chuyện
triều đình”,...chỉ thử phân tích theo quan niệm của trường phái địa danh học mà mình đang tập tọng, mầy mò học hỏi
chiêm ngẫm với tình yêu thiết tha với “tỉnh mình”!
6. Nữ nhân làm nên chuyện
nhớn:
Lai lịch của Bà Phạm Thị Thanh Trà
- Ngày sinh: 21/01/1964 (nhằm
ngày 07 Kỷ Tỵ - Lâm Đại MỘC, tháng Chạp Ất Sửu năm Quý Mão – Kim Bạc KIM hợp
năm sinh). Dân tộc: Kinh
- Quê quán: Xã Nam Yên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Vạn An, tỉnh Nghệ An), nơi “địa
linh nhân kiệt.
- Ngày được tuyển dụng làm cán bộ, công chức, viên chức:
15/8/1985.
- Vào Đảng ngày: 12/6/1993 .
- Trình độ được đào tạo:
+ Giáo dục phổ thông: 10/10 (hình
như có thời ở Bắc Hà ?)
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Cử nhân Khoa học Ngữ văn (học tại SPHLS)
+ Học hàm, học vị: Thạc sĩ Quản lý Giáo dục (chắc học hồi làm lãnh đạo ngành GD Trấn Yên?)
+ Lý luận chính trị: Cao cấp (chắc học hồi làm lãnh đạo Trấn Yên?)
- Khen thưởng: Huân chương Lao động hạng Nhì (chắc nhận khi đã làm lãnh đạo ?)
- Kỷ luật: Không
- Quá trình công tác tại huyện: Tháng 9/1985 – 9/1997: Giáo viên
Trường THCS thị trấn Cổ Phúc, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái; Cán bộ chỉ đạo
chuyên môn Phòng Giáo dục-Đào tạo huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.
11/1997 - 11/1999: Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Trấn
Yên, tỉnh Yên Bái rồi 11/1999 - 11/2000: Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (nay
là tỉnh Lào Cai) .
- Quá trình công tác tại tỉnh: 11/2000 - 01/2002: Tỉnh ủy viên
khóa XV, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Phó Bí thư Tỉnh đoàn Yên Bái .
01/2002 - 01/2006: Tỉnh ủy viên rồi Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy (từ tháng 10/2005, khóa XVI), Ủy viên Ban
Thường vụ Trung ương Đoàn khóa VII, Bí thư Tỉnh Đoàn Yên Bái; 01/2006 - 3/2008:
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái ; 3/2008 -
4/2011: Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khóa XVI, XVII, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh Yên Bái; 4/2011 - 5/2014: Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy
thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái; 5/2014 - 9/2016: Phó Bí thư Tỉnh ủy rồi Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (kỳ họp thứ
13 (bất thường) Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XVII). Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng (26/01/2016),
được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng;
Sau đó 9/2016 - 01/2017: Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
Ủy viên Ban Chấp hành Đảng ủy Quân khu 2, Bí thư Đảng ủy quân sự tỉnh Yên Bái và
01/2017 - 9/2020: Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng
nhân dân tỉnh, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng ủy Quân khu 2, Bí thư Đảng ủy quân sự
tỉnh Yên Bái.
- Quá trình công tác tại Trung ương: 9/2020 - 4/2021: Ủy viên
Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Ủy viên Ban Cán sự đảng, Thứ
trưởng Bộ Nội vụ (Quyết định số
1444/QĐ-TTg của Thủ tướng). Ủy viên Trung ương Đảng Khóa XIII (tháng 01/2021); Ngày 4 tháng 6 năm 2021,
Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 855/QĐ-TTg, bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Thường
trực Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương rồi 4/2021- 01/2025: Ủy viên
Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Cán sự đảng Chính phủ, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ
trưởng Bộ Nội vụ nhiệm kỳ 2016-2021, 2021-2026, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
(ngày 25/9/2020, Bộ Chính trị bổ nhiệm),
Đại biểu Quốc hội khóa XV. 01/2025 - 10/2025: Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên
Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ, Trưởng Ban Tổ chức Đảng ủy Chính phủ, Bí thư Đảng
ủy Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (kỳ họp
thứ nhất ngày 28/7/2021 Quốc hội Việt Nam khóa XV), Phó Trưởng Ban Tổ chức
Trung ương, Đại biểu Quốc hội khóa XV. Ngày 14 tháng 2 năm 2022, Thủ tướng
Chính phủ ký Quyết định số 204/QĐ-TTg, bổ nhiệm bà Phạm Thị Thanh Trà làm Phó
Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ; tiếp
theo, ngày 29 tháng 10 năm 2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm ký Quyết định số
1268/QĐ-TTg, thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện,
cấp xã giai đoạn 2023–2030. Theo đó, bà Phạm Thị Thanh Trà làm Phó Trưởng Ban
Thường trực Ban Chỉ đạo.
Đến 25/10/2025:
Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 -
2026. Sáng 25/10, Quốc hội khóa XV đã thực hiện công tác nhân sự thuộc thẩm quyền
đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng
Chính phủ bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026
Tiếp theo, Thủ tướng có Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày 27/10/2025
về việc phân công nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng Chính phủ
trong đó có phân công nhiệm vụ.
Theo đó, Thủ tướng phân công Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Thị
Thanh Trà theo dõi, chỉ đạo Bộ Nội vụ; thay mặt Thủ tướng Chính phủ trực tiếp
theo dõi, chỉ đạo các mặt công tác:
- Những vấn đề thường xuyên về thi đua – khen thưởng, cải cách
hành chính.
- Lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới.
- Chấp thuận chủ trương đầu tư và chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, xử
lý phát sinh của các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo lĩnh vực được phân
công.
Phó Thủ tướng Phạm Thị Thanh Trà làm nhiệm vụ: Chủ tịch các Hội
đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo, Chủ tịch Hội đồng thẩm định các
quy hoạch theo lĩnh vực liên quan; thực hiện các công việc khác theo sự phân
công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Phạm Thị Thanh Trà quả có công trong việc góp phần là rạng danh
nữ lưu, cho xứ Nghệ, mảnh đất “phên dậu quốc gia” sau đó là... cho chị em Phạm tộc và...!
- Góc nhìn khác của Lương Đức Mến
về Yên Bái, để Yên Bái không xa mà gần gũi, thân thiện; đất đai thêm có giá-
(ảnh trang trí mượn từ trên mạng và tự vẽ)
Ban
đầu (1975) cũng lắm cái tên đề xuất: Hưng Hóa (tên
tỉnh lớn xa xưa thời Cuối Lê đầu Nguyễn), Hồng Hà (Con sông lớn
chẩy dọc qua 2 tỉnh lớn), Yên Lào (tên
tạm cũ thời 9 năm), Lào Yên Nghĩa ((3 chữ đầu của 3 tỉnh), Cai Bái Lộ (3 chữ
cuối của 3 tỉnh)! Sau cùng cái tên Hoàng Liên Sơn đã được chọn mà người quyết định
nghe nói là cụ Trường Chính với tỉnh lỵ đặt tại thị xã Lào Cai. Nhưng đến 1977
tình hình trỏ lên căng thẳng, ngày 13/02/1978 tỉnh ủy HLS có Báo cáo số
05-BC-TU xin chuyển tỉnh lị về thị xã Yên Bái và đến 8/1978 các cơ quan tỉnh đã
chuyển xong từ Lào Cai về Yên Bái.
Nếu
ngày đó tên tỉnh đặt là Cai Bái Lộ như có ý đề xuất (?) thì sao nhỉ ?
Chú ý: HLS là một tỉnh cũ thuộc vùng Tây Bắc
Bộ, Việt Nam (ngày 27 tháng 12 năm 1975 đến ngày 12 tháng 8 năm 1991). Địa bàn
tỉnh nay thuộc toàn bộ tỉnh Lào Cai (sau sáp nhập Lào Cai với Yên Bái) và 1 phần tỉnh Lai Châu (trừ
Than Uyên và Tân Uyên cũ).
Giai
đoạn 1975-1998 Bộ Công an (thành lập năm
1953) đổi tên thành Bộ Nội vụ (từ
ngày 06/6/1975 bởi Quyết định của Kỳ họp thứ Nhất Quốc hội Khóa V), sau đó
theo Nghị quyết số 13/1998/NQ-QH10 ngày 07/5/1998 lại trở lại tên Bộ Công an.
Sau gần 1 tháng khi Bí thư tỉnh ủy Phạm
Duy Cường bị bắn chết tại phòng làm việc.
Với tóm tắt sự vụ như sau: Theo dự kiến, 8 giờ ngày 18 tháng 8 sẽ
diễn ra cuộc họp thứ 2 Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái cho ý kiến về nhiều nội
dung.
Vào đầu giờ sáng 18 tháng 8, ông Đỗ Cường Minh, không phải là
thành phần tham dự cuộc họp, đã thông qua Văn phòng để xin gặp Bí thư tỉnh ủy
Phạm Duy Cường khóa XIII nhiệm kỳ 2015-2020 (ông này SN 09/12/1958 tại Thanh Trì; có trình độ Thạc sĩ Quản trị Kinh
doanh Kỹ sư vật liệu xây dựng Thạc sĩ). Do quen biết, không có ai tại văn
phòng kiểm tra vũ khí trên người ông Minh.
7 giờ 45, ông Đỗ Cường Minh được cho là đã vào phòng làm việc của
Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Phạm Duy Cường và rút súng lục K-59 bắn vào đầu ông Cường.
Sau đó ông Minh đóng cửa phòng ông Cường lại rồi đi sang phòng làm việc Chủ tịch
Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái kiêm Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Yên Bái Ngô Ngọc
Tuấn (SN 18/8/1964; có trình độ Đại học Nông nghiệp chuyên ngành Kinh tế, Đại học
Luật) và được cho là đã bắn ông Tuấn. Sau khi đã bắn ông Cường, trên đường đi
sang phòng ông Tuấn ông Minh còn chào hỏi các cán bộ khác.
Hai nạn nhân đều bị bắn 2-3 phát đạn. Một nạn nhân bị bắn vào ngực,
bụng và đầu. Một nạn nhân bị bắn vào ngực xuyên lên cổ và vào đầu. Ngay sau đó,
Đỗ Cường Minh được cho là đã dùng súng tự sát bằng cách bắn vào đầu ngay tại
phòng làm việc của ông Ngô Ngọc Tuấn.
Ngay sau vụ nổ súng, hai nạn nhân và nghi phạm được đưa đi cấp cứu
ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái. Cuộc họp Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái bị hủy
bỏ.
Đỗ Cường Minh được cho là đã tự sát với một viên đạn xuyên vùng
đầu, nhập viện trong tình trạng tim ngừng đập. Sau khi được cấp cứu, tim ông
Minh đập trở lại, nhưng tiên lượng sống sót thấp. Đầu giờ chiều 18 tháng 8, gia
đình đã làm thủ tục đưa ông Minh về nhà lo hậu sự. Ông Đỗ Cường Minh sinh năm
1963, là con rể của Nguyễn Văn Ý, nguyên Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Hoàng Liên Sơn trước
đây. Vợ ông Minh là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tỉnh Yên Bái, vợ chồng
ông Minh có duy nhất một người con gái sinh năm 1992, có đi du học Thụy Sĩ. Năm
1983, ông Minh công tác tại Xí nghiệp đầu máy Hà-Lào. Năm 1986, chuyển về Đài
Phát thanh - Truyền hình tỉnh Hoàng Liên Sơn. Năm 1996, ông Minh chuyển sang
công tác tại Chi cục Kiểm lâm tỉnh Yên Bái, biên chế tại Trạm kiểm lâm 16.
Tháng 6 năm 2008, được bổ nhiệm làm Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh
Yên Bái và đến 1 tháng 4 năm 2014 được bổ nhiệm làm Chi cục trưởng. Trước đó,
em trai Đỗ Cường Minh, Đỗ Phú Giang cũng đang thụ án thời hạn 20 năm trong 1 vụ
án giết người (bị bắt năm 2011).
Nhấn vào đây để đọc toàn văn...
Tóm tắt ...