Bà Nội tôi họ Đặng thôn Phương Hạ, xã
Chiến Thắng, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng nên tôi đã cố công tìm hiểu về
nguồn cội họ này và đã từng tìm hiểu về tộc danh này. Nhân sắp đến kỳ tưởng
niệm 30 năm ngày mất của Cụ (ngày
22/12/1982, tức là ngày 08 tháng Một năm Nhâm Tuất) xin được bổ sung,
sửa đổi bài cũ
đưa lên đây để lưu, coi như một nén Tâm nhang nhớ Người.
Đặng là một họ phổ biến ở Việt Nam,
đây cũng là một trong các họ của Trung Quốc. Họ này cũng tồn tại ở Triều Tiên
nhưng hiếm. Bởi họ “Đặng Việt Nam”
chữ chỉ tộc danh nếu viết bằng Hán tự cũng như người Hán (鄧/邓) và chắc
chắn có sau người Hoa nên cứ trích theo tư liệu Trung Quốc. Tộc danh này ở vị
trí thứ 180 排第 180 位 trong cuốn Bách gia tính 百家姓 ở câu: 丁 Đinh 宣 Tuyên 賁 Bí 鄧 Đặng 鬱 Uất 單 Đơn 杭 Hàng 洪 Hồng .
1. Nguồn
gốc tộc danh:
Theo “Tính thị cấp cứu thiên chú” 姓氏急救篇注 và
“An hóa Đặng thị phổ tự” 安化鄧氏譜序 và “Nguyên Hà Tính Toản” 元和姓纂 thì nguồn
gốc tộc danh “Đặng” là: “Xuất tự tự tính” 出自姒姓, “Xuất tự tử tính” 出自子姓, “Xuất
tự Lý thị” 出自李氏...Trên
cơ sở đó có thể tạm lý giải thế này:
1.1. “Dĩ Quốc vi Thị” 以國為氏: họ
Đặng là chi nhánh của họ Mạn 曼姓, đứng đầu Đặng quốc (鄧國, 1264-678 tCn). Xa hơn, họ Mạn có gốc gác
từ Hoàng đế Chuyên Húc (颛顼黄帝, 2513 tCn-2435 tCn)
theo thời gian một nhánh phân thành họ Đặng. Chuyện rằng vào đời Vũ Đinh Vương 武丁王 nước
Đặng bị Sở Văn Vương (楚文王, ?-675 tCn)
diệt vào năm 678 tCn, hậu duệ của dòng họ Mạn đứng đầu Đặng quốc đã lấy tên
nước đặt tộc danh.
1.2. “Dĩ Ấp vi Thị” 以邑為氏: Cuối
đời Thương (商朝, 1766–1122 tCn) thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋时期 con
cháu xa đời thuộc dòng dõi Chuyên Húc xưa được ban cho đất Đặng để cai trị. Do
vậy, cháu chắt đã nhận tên Đặng làm tên họ.
1.3. “Xuất tự Lý thị”出自李氏: vào
thời Ngũ Đại Thập Quốc (五代十國, 907–960/979) con thứ 8 của Nam Đường (南唐, 937-975) hậu chủ 後主 Lý Dục (李煜,937-978)là Lý Tùng
Dật 李从镒
được phong Đặng vương 鄧王.Đến năm 975 Nam Đường bị Bắc Tống (北宋, 960-1127) diệt,Tống Thái
Tông (宋太宗, 939-997) truy sát
con cháu Lý Dục, buộc Lý Tùng Dật phải mai danh ẩn tích, lấy đất được vua cha
phong cho làm họ. Con cháu sau này cứ thế theo, thành ra từ họ “Lý” sang họ
“Đặng”.
1.4. Lấy tên đất hoang làm tên họ: Đời
Xuân Thu–Chiến Quốc (春秋戰國,770 tCn-476 tCn), để phát triển kinh tế nông nghiệp,
nhà vua lấy đất hoang để phong cho một người. Người đó triệu tập dân chúng để
khai hoang lập ấp và cư dân lấy tên đất làm tên họ. Danh xưng tên họ này, khi
viết ra Hán tự, đều có bộ ấp 阝, 邑 tên riêng để gọi một khu đất, một mình
đứng lên chiêu tập một số người cùng ở một chòm để khai khẩn ruộng nương cũng
gọi là "ấp"[1].
2.
Chữ ghi tộc danh:
Có 8 chữ Hán được đọc với âm Hán Việt là
“đặng”, gồm: 嶝 (bộ Sơn 山, Đường nhỏ đi lên núi); 撜 (bộ Thủ 扌, lấy
tay cứu vớt người); 磴 (bộ Thạch 石, bậc đá trên núi; 蹬 (bộ Túc 足,
ngơ ngác dáng thất thế);
鐙 (bộ Kim 金, đồ
dùng để đựng lễ vật nấu dâng lên cúng); 镫 (bộ
Kim 金, bàn đạp ở yên ngựa); nhưng chỉ có chữ 邓,鄧 (bộ Ấp 邑) chỉ tộc
danh “Đặng”.
Chữ này phồn thể 繁体 là 鄧, giản thể
là 邓,
thuộc bộ Ấp 邑 (阝), phiên
thiết là 徒亙切 (đồ cắng thiết), được cấu tạo bởi 從邑登聲 (chữ ấp 邑 chỉ
bộ, chữ đăng 登 là thanh) thành 笔划 14
nét, thuộc hành 五行 Hỏa 火, ngụ ý “Cát” 吉 , ít được
dùng trong khi viết, có code: U+9127. Khi tra tự điển kiểu “đầu cuối” 首尾分解查字 là 登阝 (denger),
kiểu Bút thuận biên hiệu 筆順編號 là: 54334125143152; Tứ giác hiệu mã 四角號碼 là
17127; theo cách viết 筆順讀寫 gồm 14 nét, là: 折捺撇撇捺橫豎折橫捺撇橫折豎 (chiết
nại phiết phiết nại hoành thụ chiết hoành nại phiết hoành chiết thụ) tức Gập,
Mác, Phẩy, Phẩy, Mác, Ngang, Sổ, Gập, Ngang, Mác, Phẩy, Ngang, Gập, Sổ. Ngày
nay viết chữ giản thể 简体 thì đơn giản hơn nhiều bởi chữ “đăng” 登 chỉ còn 2
nét nên thành ra chữ Đặng sẽ là: 邓.
Khác với
chữ lương 梁, chữ 鄧 là một
trong những chữ ít được dùng nên nó ít nghĩa, chỉ dùng chỉ một cổ quốc, tên đất
và ghi tên họ “Đặng”.
Cũng là chữ Đặng 鄧字 nhưng
viết với thể khác nhau sẽ cho hình dạng khác. Sau đây là một số thể 字體 khác nhau
của chữ Đặng:
3.
Họ Đặng Việt nam:
Nguồn gốc họ Đặng Việt Nam cũng từ các
nguồn tương tự (quan cai trị gán họ, lớp
người có học bắt chước, người dân tự đặt họ…) như các họ khác, trong đó có họ
Lương đã từng đề cập.
Tìm trong sử sách thấy nhân vật đầu tiên
mang họ này được nhắc đến trong Đại Việt sử ký toàn thư 大 越 史 記 外 紀 全 書 là
Đặng Nhượng 鄧 讓 trong
đoạn chép thời nước ta thuộc nhà Tây Hán (屬 西 漢 紀, 110 tCn – 39)[2]. Chuyện rằng:
“Đến cuối đời Vương Mãng 王 莽, châu mục Giao Châu 交 州 牧 là
Đặng Nhượng cùng các quận đóng chặn bờ cõi để tự giữ”. Sau đó dưới thời Đinh Tiên Hoàng 丁 先 皇 帝,vào năm Tân Mùi 971 khi bắt đầu quy định cấp bậc
văn võ, tăng đạo thì Đạo sĩ 道 士 Đặng
Huyền Quang 鄧玄光 được
trao chức Sùng chân uy nghi 崇 真 威 儀 là chức quan trông coi về đạo giáo. Đến
thời Lê Long Đĩnh có Đặng Văn Hiếu 鄧 文 孝 làm Thái phó 太 傅; thời Lý Thánh Tông có Đặng Thế Tư 鄧 世 資 làm Đô hộ
phủ sĩ sư 都 護 府 士 師 …Nổi tiếng
nhất là cha con Đặng Tất (鄧悉, ?-1409), Đặng
Dung (鄧容, ? - 1414) những danh tướng phò tá nhà Hậu
Trần (後陳朝, 1407 – 1413) chống giặc Minh xâm lược. Về
nữ nhân phải kế đến Mẫu
thân Lê Hoàn 大 行 皇 帝 黎 桓 là người họ Đặng (Đặng
Thị Sen 鄧 氏 蓮) nhưng
người mất sớm, chưa kịp hưởng lộc của đứa con mà “khi mới có thai chiêm bao
thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt”[3].
Người họ
Đặng bước vào Khoa bảng đầu tiên có lẽ là Đặng Nghiêm (鄧 嚴, con cụ Tổ Đặng Phúc Mãn) ở khoa thi Ất Tỵ,
1185 thời Lý Cao Tông và ông cũng là người khai khoa cho xứ Sơn Nam. Còn người
có học vị cao nhất thời quân chủ là Đặng Thì Thố (鄧時措, 1526 – ?) là Trạng nguyên thứ 40 của Việt
Nam.
Ông là hậu duệ của Quốc công Đặng Tất, quê làng An Lạc (còn gọi là làng Thạc), huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã An Châu, thành phố Hải Dương). Sau đó, ông trở thành
quan của triều đình nhà Mạc, làm đến chức Tả thị lang bộ Binh hàn lâm viện. Mộ
của ông táng tại An Lạc, được con cháu trùng tu năm 2005.
Người Việt
Nam thời đại nay ai chẳng biết nhà cách mạng và chính trị gia tài năng và kiên
trung, đã giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam:
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (là
nhân vật duy nhất hai lần giữ chức này), Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Chủ
tịch Quốc hội Việt Nam lại còn là một nhà thơ với bút danh Sóng Hồng. Đó là Trường
Chinh, tức Đặng Xuân Khu (1907-1988), người thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Trong suốt
chiều dài lịch sử có rất nhiều người họ Đặng có công với dân với nước, thể hiện
rõ tài năng, đức độ của mình được nhân dân thờ phụng ngưỡng mộ.
Không hiểu từ nguyên cớ gì mà mấy năm
nay trên các diễn đàn xuất hiện vấn đề “Đặng Trần” gây tốn kém thời gian, giấy
mực bao người và mất hòa khí giữa các chi phái. Tuy là cháu ngoại của Đặng tộc
tôi thấy mất vui. Nếu thế còn đâu là “Nam quốc bất hữu Đặng tộc, như hữu
Đặng tộc tất ngã tử tôn” 南國不有鄧族如有鄧族必我子孙 [4],
“Đặng tính giả cử quốc giai nhiên” 鄧姓者舉國皆然 nữa!
Các bậc trưởng thượng nên ngồi lại với
nhau, bỏ qua hiềm khích, chấp nhận những khoảng trống lịch sử chưa hoặc không
bù lấp được để vui khắp quan viên họ, đẩy việc họ lên một tầm cao mới. Lịch sử
là lịch sử, nhiều vấn đề không thể truy nguyên đến cùng được, “Tiền tiền vô
thủy” (前前無始,
không biết điểm bắt đầu) mà!
4.
Dòng họ Đặng của bà Nội tôi:
Làng
tôi xưa là làng Hương 廊香, với chữ “Hương” 香[5] trong “Hơi thơm”, sau do dưỡng mẫu Vua
Kiến Phúc (建福, 1869-1884) là Nguyễn Thị Hương 阮氏香 nên
đổi từ Hương Lạp 香粒 sang Phương
Lạp 芳粒 là một làng nhỏ thuộc tổng Cao Mật
高密, huyện An Lão 安老 (nay là thôn Phương Hạ, xã Chiến Thắng, huyện
An Lão). Các họ Nguyễn, họ Mai vốn có mặt tại làng hồi thế kỉ XV, XVI sau
này không còn mấy. Phương Lạp những năm thế kỷ XIX dân cư gồm 2 họ chính là họ
Lương xóm ngoài và họ Đặng xóm trong[6]. Chẳng rõ tự bao giờ, đã thành lệ: cứ 1
gái họ Lương làm dâu họ Đặng thì lại có 1 gái họ Đặng sang làm dâu họ Lương[7]. Do
đó trong làng nhiều nhà có họ hai mang[8]. Sự “đổi dâu” một phần tăng
tình thân nhưng nhiều khi cũng gây phiền
phức, tôi từng nghe kể có lần 2 họ đã “giàn trận” đánh nhau máu thấm ruộng cày[9] !.
Ngoài Phương Hạ ra, tại các thôn Kim Côn
今崑,
Côn Lĩnh 崑嶺,
Mông Thượng 蒙場上,
Cốc Tràng 谷場,
Tôn Lộc 尊祿 trong
xã Chiến Thắng đều có người họ Đặng. Nhưng tập trung nhất là ở Phương Hạ
(Đặng Văn), Mông Thượng (Đặng Duy, Đặng Hữu) song tôi chưa rõ có
cùng cụ Tổ như họ Lương trong vùng không?. Cội nguồn dòng họ với Thủy tổ là ai,
từ đâu đến, đến khi nào cùng sự phát triển của các chi phái ra sao tôi cũng
chưa nắm được. Vì xa quê, trên Lào Cai có 2 bác (Đặng Văn Nhỡ ở Phong Niên, Đặng Văn Thỏa ở Trì Quang) gọi bà tôi bằng
cô ruột rời Hải Phòng lên đây cùng dịp 2/1964 nay các bác mất cả, mấy anh (Đặng Phúc Xá, Đặng Cao Sơn…, Đặng Văn Tăng…)
con các bác chẳng rành nên tôi chưa tìm hiểu được gì hơn[10].
Đành để dịp khác
Ngày Mồng Hai tháng Một năm Nhâm
Thìn, 壬辰年壬子月己酉日 (14/12/2012).
[2] Trong một trang tư liệu có tác giả viết về người họ Đặng
đầu tiên có công với nước: “Thời kì vua
Hung vương-có Đặng Oánh làm Tể Tướng Đại vương: chống giặc Ân, mở mang bờ cõi
Con Lạc Cháu Hồng. Ông chết được vua Hùng Duệ vương phong Lạc Tướng và còn
nhiều cụ khác nữa phò vua giúp nước không tiện kể hết”.
[3] Khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc
năm đầu (980), đã ruy phong cha làm
Trường Hưng Vương 長 興 王, mẹ họ Đặng
làm Hoàng thái hậu 皇 太 后
[4] nghĩa là ở trên đất Nam ta không có người họ Đặng thì
thôi, mà ở đâu có người họ Đặng đều là anh em một nhà
[5] Chắc các cụ xưa kia chọn mỹ từ để đặt tên chứa không phải
do đặc điểm làng xóm bởi từ khi lớn đến nay tôi chưa thấy làng tôi có đặc sản
gì liên quan đến yếu tố “thơm” cả!
[6] Tôi đã hỏi nhưng không ai rõ lí do. Nhưng đọc
kĩ lại Gia phả thấy các cụ xưa đã ghi rõ “y
xã duy hữu Nguyễn, Mai nhị tính. Nguyễn vô tự, công ký yên, hậu sinh nam tử
lục,..” thì rõ là ngày từ 1740-1750 làng Hương đã không còn họ Nguyễn. Nhưng
họ Mai ?. Riêng Làng Cốc (nơi họ Phạm đến
1716) vẫn còn 17 họ.
[7] Chính anh bà tôi lại lấy chị gái ông tôi (bà Huân). Ngoài hai họ Lương-Đặng, ở
Chiến Thắng tôi còn thấy có tình trạng họ cặp đôi giữa các dòng họ: Lương-Phạm,
Lương-Đào, Đào-Phạm. Sau này ở An Hồ, Phong Niên, Bảo Thắng trên Lào Cai có
tình trạng 2 chị em lấy 2 anh em như cặp Thuộc-Nghị, Quang-Loan và cặp Hoàn-Thường,
Phúc - Toan nhưng không phải là kết quả của sự “trao đổi cô dâu” giữa các dòng
họ, mà do các em tự tìm hiểu trong điều
kiện xóm có ít nhà.
[8] Có trường hợp thuận vai như cặp hai bác Đặng Thoả - Lương
Thị Huấn. Nhưng cũng có khi nghịch vai vế như bố mẹ Ngoãn (Ngoãn bằng tuổi tôi
và học cùng tôi từ Vỡ lòng đến lớp 2, tôi gọi mẹ Ngoãn (Đặng Thị Nguyên) là cô nhưng chỉ gọi bố Ngoãn (Lương Đức Thê) là anh .Gia đình cũng đã lên Lào Cai 1964 nhưng lại
về quê ngay. Cư ngụ gần từ đường .
[9] Tôi chợt nhớ câu ca : “Bịt
được miệng chĩnh, miệng vò, Nào ai bịt được miệng Cô,miệng Dì”.
[10] Tôi cũng chưa rõ Từ đường họ Đặng Phương Hạ đặt ở chỗ nào!
Rất cám ơn anh đã quan tâm và viết khá chi tiết về họ Đặng.
Trả lờiXóaViệc hoặc có thể coi là vấn nạn Đặng Trần là do cá nhân Đặng Văn Thảo gây ra nhằm mục đích trục lợi cá nhân chớ không phải là hiềm khích trong họ Đặng chúng tôi.
Chúng tôi đã biết vấn nạn này và đã bất tín nhiệm ông Đặng Văn Thảo. Hiện nay ông Thảo vẫn ngoan cố thực hiện một số việc để thu lợi bất chính mà phần lớn người họ Đặng chúng tôi không chấp nhận.
Kính.