Lần đầu đến đất Sài Thành,
Biết bao bỡ ngỡ, rồi dần mới quen.
Khi TQ tuyên bố hoàn thành việc rút quân khỏi các vùng đã chiếm lấn của VN (04/3/1979), việc học tập của chúng tôi trở lại bình thường theo kế hoạch. Trong đó có việc thực tập Nội Vòng II.
Phút chót mới biết tôi đi thực tập tại Sài Gòn (chắc do mấy ảnh rõ tôi có gia đình tại biên giới phía Bắc, Lào Cai). Xin mãi được anh N.V. Phẳng (C trưởng phụ trách 2 B học viên K69 chúng tôi) đồng ý, tối 17/3/1979 (thứ Bẩy ngày 20/02 Kỷ Mùi) tôi ra ga Hàng Cỏ (Hà Nội) chen mua vé lên tầu về Hải Phòng, trên tầu gặp gia đình bà Đoàn Văn Minh (cùng thôn An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai) trên đường “chạy loạn” về quê (ở Hải Phòng).
Đến HP lúc 21 giờ, trời tối lại lạ đường (từ khi rời quê năm 1964 tôi mới trở lại một lần vào năm 1971) cũng lo lo nhưng dựa vào trí nhớ tuổi thơ tôi vẫn đạp xe về đến làng Hương quê Nội tôi được (độ hơn 20 cây). Đường làng trơn, dò mãi cũng tới nhà anh L.Đ. Tiêm (anh họ tôi). Biết Bà ở xóm trong (họ Đặng, họ bà tôi), tôi vào thăm bà. Sáng ra, vào Cốc (bên Ngoại, cách làng Hương quê Nội khoảng cây rưỡi) thăm Mẹ và các em. Tại đây mới biết Bố và em Thường đã ngược lên Lào Cai từ 2 hôm trước vì được tin Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (中國人民解放軍, PLA) rút khỏi Phong Niên xã tôi từ 08/3 (thứ Năm ngày 11/02 Kỷ Mùi).
Sau này tôi được biết, khi bố lên đến nhà thì nhà đã cháy, có chỗ còn đang nghi ngút khói, Thường (em gái tôi) bới được ít soong nhôm chảy, bố tôi nhặt được ít đinh cong queo! May còn con lợn vì thả ra nên còn sống, chạy được về.
Theo L.Đ. Quang (em con chú ruột tôi) nói thì ngày 09/3 sau khi PLA rút, Quang đóng quân gần đó có về thì nhà vẫn còn. Có lẽ do BĐ ta nấu ăn vô ý cháy. Khi cả nhà lên, chăn màn các em tôi phải lên chốt trên đồi gần nhà nhặt nhạnh, gom lại đem về. Thế là lại làm lại từ đầu ! Buồn cười là khi nhận hàng viện trợ do nhà bị cháy mẹ tôi nhận được toàn quần áo con nít, trong khi út Luận đã 9 tuổi! Đến 15/3 thì phía TQ rút hết khỏi Mường Khương và Bát Xát. Kiểm lại xóm tôi không chết một ai, chỉ mất tài sản, lợn gà bỏ lại. Riêng duy nhất có nhà tôi bị cháy. May mà BẰNG TỐT NGHIỆP CẤP III của tôi và chú Thuộc được “vất” ra ngoài, không bị cháy nên đợt kiểm tra văn bằng năm 1993 chúng tôi có đủ thứ trình ra!
Từ HP, lên đến Hà Nội tôi vào ngay Phú Xuyên (Hà Tây) đưa xe đạp cho L.Đ. Tràng (em, con chú ruột tôi, thời gian này Tràng đang thực tập TCCN Bắc Thái tại Nhà máy đường Vạn Điểm gần nhà Phùng Thế Hùng) rồi quay về Trường ngay trong tối 19/3, chậm 1 giờ !. Xe này sau đó giao cho P.T.Nguyệt (em gái ruột P.T.Hùng, đang học Cao Đẳng Sư phạm Hà Tây ở Thường Tín) bảo quản và sử dụng.
Ngày 21/3/1979 (14/02 Kỷ
Mùi, vào thứ Tư) đoàn đi thực tập tại miền Nam là Đoàn rời
trường ĐHQY (HVQY nay) sau cùng. Vì giận HM không ra tiễn
tôi viết bài thơ “Hai bông Hồng”.
Chúng tôi đi theo đường
giao liên Quân đội bằng Tầu hỏa trên
tuyến đường sắt Bắc Nam cả lượt đi lẫn lượt về[1].
Cũng vì đi tập thể theo đường giao liên
nên chúng tôi không phải chen chúc mua vé, lên tầu và ngồi tầu!
Lượt vào, cả Đoàn 70 người chung một toa, toa giường nằm loại
6 người một khoang[2],
ăn uống do ngành đường sắt lo: ngay tại ga Hàng Cỏ (Hà Nội)
chúng tôi được phát mỗi người một túi “thực phẩm” trị giá 5 đồng (ngày đó là nhớn chuyện rồi) gồm
nhiều loại bánh kẹo và có cả thuốc lá... Số người không hút thuốc như
tôi giữ lại và “đẩy đi” tại ga Bình Triệu (chưa
rõ vì sao không vào ga Hòa Hưng). Ban ngày, 2 bạn nằm tầng trên hạ đệm xuống
và cùng người nằm tầng 1 ngồi ngắm cảnh qua cửa sổ.
Lần đầu đi
dọc đất nước[3] thấy lắm cảnh
lạ, điều hay[4]:
Khoai Diễn Châu, Cơm Đồng Hới, Mía, Gà Đà Nẵng..., vượt đèo Hải Vân,
lượn ven Bãi biển Sa Huỳnh....Nhưng lâu quá rồi, quên nhiều và ngay cả những việc còn nhớ nhưng thuật hết ra đây sẽ quá dài lại vướng chuyện riêng tư, khó nói (chưa kể chuyện cấm kị,“sống để bụng chết mang đi”)!
Buồn cười là khi mua
“Đào lộn hột” ở ga Mường Mán (cây số 1500) cứ tưởng như quả Đào ngoài Bắc nhưng hột ở ngoài, song khi ăn không phải vậy! Tội
mấy khăn Muixoa nhựa dính không sao giặt sạch được; Khi ở Quảng Ngãi (ga
gà) ăn cua bị “Tào Tháo đuổi” hầu hết, hú vía !
Tháp Chàm, Thuận Hải
nóng ghê người và hoang vu quá, lác đác mấy đàn bò gầy giơ xương bên bụi xương rồng cùng những
ngôi nhà thấp tè quây kín và lợp tôn. Sang Đồng Nai thì mát rượi cây cối. Qua Xuân
Hoà dấu tích chiến tranh hồi Xuân 1975 còn khá rõ trên các bức tường
sót lại,...
Tới ga nào, đến giờ tắm,
anh em ào xuống làm vệ sinh.
Ròng rã ngót nửa Tuần,
chiều tối thứ 7 (ngày 24/3/1979)
tầu cập ga Bình Triệu (tf Hồ Chí Minh).
Lần đầu biết thế nào là “con phe” đất Sài thành. Bám dai, hỏi đủ
thứ: tem lương thực, thuốc lá, sữa...cánh “lính SV” chúng tôi xua chả đi.
Sau đó xe của phân hiệu
nhà Trường đón và đưa thẳng chúng tôi về 520 Nguyễn Tri Phương thuộc
quận 10 (Cơ sở bổ túc Sĩ quan quân y cũ của Nguỵ), gần kề QYV
115.
Đúng ngày hôm
sau (25/3/1979, vào Chủ Nhật) toàn thành phố có tin: tiền
50 đồng mất giá làm hàng hoá cứ leo thang hoài (hồi đó trong Nam
sài tiền lẻ cả tiền nguỵ lẫn tiền giải phóng, đổi không quen lắm
lúc khá phiền !).
Nhà trường chia
bọn tôi làm 4 nhóm thực tập ở: BV Chợ rẫy, QYV 117/121 (Cần Thơ),
QYV 115 và QYV 175.
Tôi về 175 trong nhóm 20 người thực tập Nội. QYV 175 chính là Tổng y viện Cộng hoà cũ nằm trên đường Võ Duy Nghi nối dài thuộc Quận Gò Vấp. Chúng tôi ở Cư xá SV cũ (đối diện QYV qua đường VDN nối dài), 2 người một phòng, khá rộng.
Nói thêm về QYV 175: Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, ngày 12/5/1975 QĐND Việt Nam tiếp quản Tổng Y viện Cộng hòa (Cong Hoa General Hopital), đặt tên mới là Viện quân y 175 (tập hợp từ 3 bệnh viện: K116, K72, K59, một số Đội Điều trị) và tăng cường của Bệnh viện Quân y 108, Bệnh viện Quân y 103 ngoài Bắc vô. 175 là số hiệu hợp thành của 3 số đầu của 3 bệnh viện, làm nhiệm vụ tiếp nhận, cứu chữa thương binh, bệnh binh và giải quyết di chứng vết thương chiến tranh, từng bước xây dựng thành bệnh viện tuyến cuối của Quân đội phía Nam.
Lúc đầu, Bệnh viện Quân y 175 thuộc Cục Hậu cần Miền, sau đó thuộc Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần, và trực thuộc Bộ Quốc phòng (1/1/2003).
Hiện nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 175 (BV 175), tọa lạc tại số 786 Nguyễn Kiệm, Quận Gò Vấp, có nhiệm vụ khám chữa bệnh cho cán bộ cấp cao trong quân đội, cán bộ cấp cao Đảng - Nhà nước, và các đối tượng khác.
Thời kỳ chúng tôi thực tập tại đây, QYV 175 do GsTs Nguyễn Thúc Tùng (Tùng con để phân biệt với Tùng lớn là Gs Tôn Thất Tùng) là Viện trưởng; Bác sĩ, AHLLVT Đỗ Hoài Nam (1931-1990) là Phó Viện trưởng phụ trách Ngoại còn Phó Viện trưởng phụ trách Nội là Giáo sư Đỗ Đình Địch (1917-2009).
Hồi này Nhà nước đang
khó khăn, bữa cơm ăn toàn “bo bo” (mì hạt) với
thức ăn là bì lợn (nhà máy đóng hộp thải ra) nhai trại quai hàm,
ghê cả răng. Nhưng sức trẻ vẫn chén hết sạch, đến giờ qua đường sang QYV 175 làm việc. Đói! Hàng quà xung quanh sẵn
nhưng hổng tiền, chỉ dám sài Xá xị với Bánh đa nướng!
Nhiều chuyện
hiểu lầm tức cười. Quen uống rượu với lạc và cũng là để đỡ tiền,
chúng tôi gọi lạc rang, chủ quán hỏi: lạc đỏ hay trắng, bọn tôi bảo
gì cũng được. Thế là mấy cô túa ra vây liền. Về sau dân bản địa cho
biết : “lạc đỏ chỉ gái tơ, lạc trắng chỉ gái xề và 2 loại chênh giá
khá lớn”. Hú hồn !
So với số đông các
BV ngoài Bắc hồi đó thì trang bị của QYV 175 khá hơn,
một số thuốc, vật tư còn lại từ hồi Mỹ viện trợ cho quân đội Sài Gòn; mặt bệnh cũng phong phú, nhất là nhóm bệnh Nhiệt đới và ngoại Dã chiến.
Hồi này tình hình biên giới Tây
Nam căng nên Thương binh về luôn và chúng tôi gặp nhiều dạng vết thương do
mìn, súng AK, nhiều bệnh nhân sốt rét ác tính và bệnh nhân mắc chứng Hysteria,....
Ngoài 175 chúng tôi
còn được thực tập ở BV Gò Vấp về Sản khoa và BV
Chợ Rẫy về Cận lâm sàng.
Lý thú là, cùng một
đất nước mà có từ đọc mãi mới hiểu. Ví dụ: “Uốn ván”
gọi là “Phong đòn gánh”, “nước biển” chính là nước muối sinh lý,…. Một hôm
trực Sản tại NHS Gò Vấp có một ca tuyến dưới chuyển lên giới thiệu là: “Nghi xảy
thai Doté” ! Cho rằng các Bs trong này hay dùng chữ Pháp nên tôi ngỡ đó
là Hội chứng gì mà mình chưa rõ nên đã lục trí nhớ, tra từ điển mãi
chả hiểu Doté là bệnh hay hội chứng gì!. Sau, hỏi một Nữ Hộ sinh cùng
trực mới hay đó là chữ thuần Việt, viết liền. Nó là: do té = do
ngã ! Ca đấy, chúng tôi xử lý thành công!
Chính dịp này HM cũng
vô Nha trang thực tập (rời HN sau tôi 1 tháng). Nhưng vì thời gian
và ngân sách nên tôi không thể ra thăm, với lại hồi đó chúng tôi chưa
yêu nhau.
Bù lại, chúng
tôi cũng đã đi nhiều nơi (cả đoàn hay tốp lẻ): Vườn cây trái
Lái Thiêu, Dinh Độc lập, Sở thú, Chợ Bến Thành...bằng ô tô của Trường hay
trên những chiếc xe đạp của người nhà Lộc và của người nhà Thành, Lân cho, cho
mượn. Hồi đó trong số chúng tôi, ối người mò tìm được nhà người họ hàng với địa
chỉ khá mơ hồ!.
Cũng có lắm kỉ
niệm hay. Nhưng nhớ nhất là chuyện với cô y tá M ở Khoa XN, chính
vì bài sau mà suýt nữa tôi bị tổ Đảng “cắt đối tượng” !
“Ai làm chiếc nón quai thao,
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh”.
Mùa hè che mái tóc xanh,
Chao tay nón quạt lay thành gió ngân.
Đường làng bước dưới mưa Xuân,
Tay nghiêng che nón, tay cầm trong tay.
Ước gì là một áng mây,
Lợp nên chiếc nón suốt ngày bên em.
(Cư xá Sinh viên-Võ Duy Nghi nối dài-Gò Vấp 8/1979)
Thời kì này thương
binh từ CPC về nhiều nên khá bận việc. Bù lại các Y tá, Hộ lý ở
đây khá “nhiệt tình” và quí bọn tôi. XL, người Huế mết Đào Dũng, N
“vây” Chử Thành... làm nhiều khi bọn tôi phải xơi quả và tiếp
khách...oan !.
Theo Kế hoạch thì thực tập 4
tháng. Nhưng vì đoàn Biên giới phía Bắc phải bận theo “chiến dịch” nên
bọn tôi được lệnh Kéo dài thời gian! Chủ nhật không trực
là bọn tôi được đi chơi khá nhiều nơi nhưng phải đi từ 3 người trở lên, theo
đúng quy định Nhà trường quân đội đề ra!...
Qua thư từ tôi
biết gia đình đã trở lại Lào Cai, mẹ gửi cho tôi 200đ.
Tới tháng 11 mới nhận
lệnh “Thi hết vòng Nội II và ra Bắc học tiếp hết chương trình[5], chuẩn bị Ôn và Thi Tốt
nghiệp”.
Vì cạn tiền và cũng chưa quen “buôn bán” nên chả
mấy ai mua đồ nhiều !
Chiều
24/11/1979 Trường
đưa xe từ Gò Vấp ra ga Hố Nai.
Qua 9 tháng hầu hết
CBNV QYV 175 đều rất quí bọn tôi, nên tổ chức chia tay khá
cảm động và có nhiều người tiễn ra tận ga. Trong thời gian
chờ tầu mới biết nơi đây toàn dân “đuổi Pháp quá đà” vô Nam từ 1954 mà đa phần là dân Công giáo.
Đường
ra chúng tôi đã kém
hào hứng và phục vụ của giao liên quân đội cũng kém hơn lượt vào[6].
Đến
Đà Nẵng tầu bị bọn trộm
đột, đoàn tôi mất một ít, của tôi “nguyễn y vân”. Mà hồi đó sao
cướp, trộm nhiều thế, nhất là trên Tầu tuyến Bắc Nam!
5 giờ sáng 27/11/1979
tới Hà Nội (ga Hàng Cỏ). Lúc này HN đã rét, phải khoác thêm áo len (mặc dù đến Vinh chúng tôi đã lôi đại cán ra mặc). Chờ 8 giờ
Trường đưa xe ra đón, tôi để đồ đạc cho ND Chi quản, đưa về
trường, còn mình ngược ngay chuyến tầu trưa lên Lào Cai (xuống
ga Phố Lu rồi cuốc bộ 15 cây số xuyên rừng về nhà ở An Phong, Phong Niên cùng
huyện Bảo Thắng).
Về tới nhà, sau 5
ngày tầu xe người phờ phạc hẳn và mới biết bố tôi vừa ra
viện (phù).
Sau Chiến tranh biên
giới 279, nơi đây toàn Bộ đội đóng quân. Nhà tôi bị cháy, chưa làm
lại, ở tạm nhà cũ xưa. Lúc này túi tôi còn vừa đúng 3 đồng rưỡi.
Kiểm đồ mua từ Sài Gòn ra
thấy cái áo mút (mầu xanh) mua cho út Luận (SN 1970) khi xem ở chợ Bến Thành rõ là
dài sau bây giờ như áo Búp bê, túi cá mực thì bên trong toàn cá tạp, chỉ 2 lớp
ngoài là mực; cau khô mua cho cô (chị gái
bố tôi ở Sơn Hải) thì cứng như đá…!
Thế là kết thúc chuyến sống ở Sài Gòn đầu tiên và cũng là chuyến xa nơi đóng quân (1700 km) dài nhất (ngót 8 tháng) từ khi rời gia đình (9/1973) đến nay!
[1] Đường sắt Bắc Nam hay đường sắt Thống
Nhất là tuyến đường sắt bắt đầu từ thủ đô Hà Nội và kết thúc tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Đường sắt Bắc Nam chạy gần
song song với Quốc lộ 1 là một phần của hệ thống tuyến đường sắt xuyên lục địa
Á - Âu.
Tuyến này do Pháp xây dựng
và ngày 2 tháng 10 năm 1936 chính thức
khánh thành. đi qua các tỉnh và thành phố:
Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh.
Thời kỳ chiến tranh (1945-1975), tuyến đường sắt này bị hư hại
nặng nề.
Sau Thống nhất đất nước, bằng
Mệnh lệnh đặc biệt số 358-TTg ngày 14-11-1975 Hội đồng Chính phủ cho khôi phục
nhanh chóng tuyến đường sắt thống nhất nối lại hai miền Bắc – Nam đã bị chia cắt
Việc khôi phục được hoàn
thành vào ngày 31/12/1976 và việc khánh thành tuyến Đường sắt Bắc Nam (Đường sắt Thống Nhất) với sự kiện hai
đoàn tàu Thống nhất xuất phát cùng giờ, cùng ngày tại ga Hà Nội và ga Sài Gòn (ga Hòa Hưng).
[2] Toa Bn với 7 khoang/toa
[3] Trên được kéo bằng đầu máy hơi nước và có 6 toa xe,
trong đó có 4 toa giường nằm.
[4] Hồi đó, do an ninh đã tương đối ổn định nên tầu chạy cả ban đêm, không dừng nghỉ lại tại các ga chính như: Vinh, Đồng Hới, Đà Nẵng…
[5] Để năm sau thực tập tốt nghiệp tại Bệnh viện Việt Trì của tỉnh Vĩnh Phú (19/5 đến 10/10/1980)
[6] Chúng tôi được bố trí tại toa xe ngồi cứng, ký hiệu bằng chữ B.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!