[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


19 tháng 9 2024

Tản mạn về CỨU TRỢ và ĐỒ CỨU TRỢ

           Phải nói thẳng ra rằng, cho đến hôm nay, càng thấy rõ sức mạnh ghê gm của Mẹ Thiên nhiên! Cơn bão số 3 (Yagi) đi qua đã để lại nhiều thiệt hại về người và tài sản, nhiều căn nhà (có khi cả một xóm. một bảnđược lũ (ống, quét) tràn qua hỏi thăm nên bị bùn, đất, nước nhấn chìm, nhiều người phải chịu cảnh đói rét, đau thương mất mát tột cùng, có người đến nay vẫn “bặt vô âm tín”,…cả với toàn miền Bắc nói chung và Tây Bắc, Lào Cai nói riêng chưa từng gặp (mà 60 năm sống trên giải đất biên cương này, nay tôi mới thấy lần đầu)!.

  Cổng TTĐT tỉnh cho biết:  Theo thống kê, rà soát của các địa phương trên địa bàn tỉnh Lào Cai, đến 17 giờ ngày 18/9/2024, bão số 3 và hoàn lưu bão đã làm 236 người chết, mất tích, bị thương; ước thiệt hại trên 5.900 tỷ đồng. Thiệt hại về người: 236 người. Trong đó 128 người chết, 22 người mất tích, 86 người bị thương (tăng 01 người chết tại huyện Bảo Yên, giảm 01 người mất tích tại huyện Bảo Yên). Hiện có 23 người đã ra viện, sức khỏe ổn định. Sau khi các địa phương rà soát lại, có 11.289 nhà ở bị ngập nước, sạt lở, lũ cuốn trôi, di dời khẩn cấp, hư hỏng công trình phụ; trong đó 1.234 nhà thiệt hại hoàn toàn >70%. Diện tích ruộng lúa bị sạt lở, mất đất không có khả năng khôi phục để sản xuất gần 48 ha và bị sạt hoàn toàn, phải cải tạo để gieo cấy trở lại gần 499 ha. Ngoài ra diện tích lúa, ngô, hoa màu, cây ăn quả, cây trồng, dược liệu, hoa… thiệt hại khoảng 6.160 ha; 45.000 giống cây chuối, 400.000 giống cây quế và 353 ha thủy sản, 800 m3 cá nước ngọt bị thiệt hại; 3.050 tấn cá thương phẩm và 123.200 con cá giống bị chết, lũ cuốn trôi. Chăn nuôi thiệt hại 43.295 con gia súc, gia cầm; hư hỏng 1.009 chuồng trại. Quốc lộ 4, 4D, 4E, 279 sạt taluy dương 703 vị trí; sạt taluy âm 68 vị trí; 65 vị trí hư hỏng mặt đường. Tỉnh lộ 151 - 162 sạt taluy dương 1.249 vị trí; sạt ta luy âm 181 vị trí; hư hỏng mặt đường 57 vị trí. Đường do huyện, xã quản lý bị sạt lở, hư hỏng 1.119 tuyến, sạt taluy dương 2.644 vị trí; sạt taluy âm 230 vị trí. Còn ách tắc giao thông Tỉnh lộ 08 vị trí, 47 thôn chưa lưu thông được, đi lại khó khăn.

Đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh đã cấp điện cho 100% trụ sở UBND xã; còn 42 thôn chưa có điện (huyện Bảo Yên 10 thôn, huyện Bắc Hà 08 thôn, huyện Bát Xát 15 thôn, huyện Si Ma Cai 08 thôn, huyện Văn Bàn 01 thôn). Hiện tại còn 05 tuyến cáp bị đứt, 01 trạm BTS bị mất liên lạc đang sửa chữa, khắc phục. Cơ bản khắc phục xong 152/152 xã, phường, thị trấn đã có sóng liên lạc. Có 9 chợ đã hoạt động trở lại, 02 chợ chưa khắc phục được. Các cửa hàng, siêu thị, nhà phân phối, các chợ giá cả các mặt hàng ổn định, không có mặt hàng tăng giá bất thường do thiên tai.

Số lượng công trình hạ tầng bị thiệt hại sau rà soát tiếp tục tăng lên. Mưa lũ làm 322 công trình thủy lợi bị hư hỏng, thiệt hại; 28 trạm, phòng khám, bệnh viện bị ngập lụt, cuốn trôi một số điểm. 138 điểm trường học bị ảnh hưởng, thiệt hại. 20 nhà văn hóa bị ngập lụt, sạt lở đất. 10 trụ sở cơ quan huyện, xã; 04 trụ sở ngân hàng, phòng giao dịch; 26 dự án thủy điện; 07 dự án khai thác khoáng sản bị ảnh hưởng, thiệt hại và nhiều thiệt hại khác. Theo báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo đến sáng 17/9/2024 còn 59 trường, điểm trường chưa tổ chức dạy học trở lại do còn ngập nước, chưa sửa chữa, khắc phục xong hoặc đang sử dụng làm nơi tránh trú tạm thời cho Nhân dân.

Theo số liệu ước của các huyện, thị xã, thành phố; tổng thiệt hại trên địa bàn tỉnh do bão số 3 và hoàn lưu bão gây ra đến chiều ngày 18/9/2024 hơn 5.900 tỷ đồng.” (hết trích).

Phong trào cứu trợ đồng bào lũ lụt tuy chẳng ai, cơ quan cụ thể nào thúc đẩy mà tự dưng lên cao. Đặc biệt những nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tinh thần đoàn kết, cùng nhau dành sự quan tâm sâu sắc và tình cảm chân thành hướng về đồng bào vùng bão lũ cứ ùn ùn dâng lên! Đó cũng là nguyện vọng chính đáng là toàn xã hội, mong muốn góp thêm nguồn lực cùng với Đảng, Nhà nước khôi phục cơ sở hạ tầng, hỗ trợ tái sản xuất, đảm bảo đời sống của nhân dân khi cơn lũ đi qua.

Là người đi lại nhiều và có mối quan hệ khá rộng với bà con người họ Lương, người gốc Hải Phòng, gia đình có liên quan đến HVQY và Cựu CAND…ở thành phố và các huyện trong tỉnh Lào Cai nên tôi càng “mục kích sở thị” sự thiệt hại cũng như sự cứu trợ của bà con!

 Một lần nữa, tinh thần “bốn tại chỗ”, “tương thân tương ái”,… được dịp tỏ rõ tính ưu việt của nó. Nhưng qua đó cũng thấy nhiều vẫn đề nổi cộm!

Trước hết là về tổ chức cứu trợ: Ban Vận động cứu trợ Trung ương/Tỉnh/Huyện do Mặt trận Tổ quốc chuyên nghiệp làm nòng cột hẳn hoi nhưng mà sao việc tập trung về đấy rồi phân bổ đi các nơi cần đến chưa được sự đồng thuận của toàn xã hội ?. Phần nhiều những cá nhân/nhóm/cơ quan, tổ chức đã không quản ngại đường xa, đến tận nơi để ủng hộ trực tiếp người dân bị hại tại Nhà Văn hóa thôn bản, hay nơi tập trung đông người với tình cảm, nguyện vọng được đóng góp nguồn lực giúp đỡ trực tiếp người dân sớm vượt qua khó khăn. Do vậy dẫn đến tình trạng “nơi thừa, nơi thiếu”, nơi thiệt hại lớn thì chẳng được ngó ngàng, nơi thiệt hại không đáng kể thì các đoàn ùn ùn kéo đến,…(chắc do có người thân vốn quen biết rộng, biết sử dụng điện thoại thông minh chèo kéo, giới thiệu)!

Đặc biệt dịp này truyền thông ít nói đến các văn nghệ sĩ, người nổi tiếng và việc hô hào, quyên góp của họ mà đưa nhiều tin, hình ảnh đẹp về các đồng chí lãnh đạo (cơ sở hay cấp cao), về người lao động (trực tiếp hoặc gián tiếp), về các chiến sĩ QĐND, CAND (chỉ huy hay người thừa hành),…, khi người đó có những quyết định kịp thời, táo bạo, hợp lòng dân, có hành động xả thân vì đồng bào, vì làng bản, núi rừng!. 

Việc sao kê, giám sát chuyện phân bổ hàng cứu trợ đã rất kịp thời, có tiến bộ,... song chưa thực sự tạo lòng tin của quảng đại, vì sao?

Khá chạnh lòng trước một số phát ngôn hơi thái quá, khá khó nghe của người được cứu trợ và người đang cứu trợ!

...

Sau nữa về mặt hàng cứu trợ:

Trang phục: Đã qua những ngày lụt, lũ nhưng vẫn kìn kìn áo phao; Lẫn trong mớ hàng cứu trợ là những “áo ba dây”, “Giầy cao gót”,… để làm gì!?

Sách vở: liệu những quyển Sách Giáo khoa chuyên biệt, những quyển vở lòe loẹt,…có ích hơn nhưng bộ sách Giáo khoa “bắt buộc” hay những bộ truyện tranh, sách tham khảo,... các cháu ưa thích đang đọc dở ?

Lương thực thực phẩm: Mì tôm liệu ai dùng mãi được ? Bánh chưng thiu, giò mốc,...chất đống ăn sao đây? Trong khi cái người dân cần bây giờ là gạo, muối, nước mắm, bột ngọt,…

Vật dụng thiết yếu: Bị trôi, vùi lấp (như: đồ dùng nhà bếp, chạn, bếp, nước sạch, dụng cụ lao động thiết thực,…) thì hầu như không có mặt trong danh mục hàng cứu trợ, các gia đình không có phải tự mua nhưng tiền đâu ra, mua ở đâu?

...

Dù hoàn cảnh nào, yêu cầu sử dụng đúng mục đích và công khai theo đúng quy định của pháp luật, đáp ứng thiết yếu,…luôn được đề cao. Mặt khác, việc phân bổ kịp thời, minh bạch, đến đúng người, đúng địa chỉ tại các địa phương đang chịu ảnh hưởng bởi bão lũ, đồng thời thực hiện giám sát việc sử dụng nguồn lực ủng hộ đúng mục đích, có hiệu quả, …luôn là những yêu cầu cao.

Về những người/đoàn đi cứu trợ: Cần có khảo sát cả về nơi cần cứu trợ cũng như cách tiếp cận; đảm bảo cứu trợ “3 đúng”: đúng cách, đúng người, đúng địa điểm; cần thiết thực, đúng nhu cầu, tránh lãng phí và nhất là biết “tự bảo vệ mình” để khỏi phải “cứu trợ lại” hay “cứu hàng cứu trợ”; cần trao đổi thông tin về các khu vực bị ảnh hưởng, nhu cầu và hoạt động tiếp nhận trước đó của nơi cần cứu trợ,....

...

Về những người/địa phương nhận cứu trợ: Lắm chuyện tế nhị và...khó nói nên tốt nhất là không viết ra đây mà bài cũng đã dài dài rôi!

...

Sự giúp đỡ về tinh thần, vật chất (kể cả tiền bạc) kịp thời, đúng cách là thiết thực nhất để giúp người dân vùng lũ sớm khắc phục thiệt hại, ổn định cuộc sống. Điều đó trong tầm tay mỗi người dân, cơ quan, đơn vị, địa phương,… cứu trợ!

Đây là việc làm sẽ còn tiếp tục. Mong sao có chuyển biến hơn dù chả ai mong mình, quê mình cần và phải, được cưú trợ khảo sát cả về nơi cần cứu trợ cũng như cách tiếp cận; đảm bảo cứu trợ “3 đúng”!

-         Lương Đức Mến, 17/8/Giáp Thìn-

Nhấn vào đây để đọc toàn văn...

29 tháng 8 2024

MỘT TẤM GƯƠNG TIÊU BIỂU, CÂY ĐẠI THỤ NGÀNH Y

(Có sử dụng ảnh và tư liệu của Bác sĩ Nguyễn Vân Sáu, nguyên Chánh Văn phòng HVQY, trong những ngày chuẩn bị Hội Khóa 69 ĐHQY tại Đảo Ngọc và thăm quan K9)

Thầy tôi, Giáo sư Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp sinh ngày 8 tháng 7 năm 1906, mất ngày 17 tháng 12 năm 1985; là một thầy thuốc, một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam (phong thiếu tướng năm 1985); Giáo sư là Đại biểu Quốc hội từ khoá II đến khóa VII; Uỷ viên Thường vụ Quốc hội khoá IV, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Y tế xã hội của Quốc hội khoá VI; Uỷ viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khoá III, Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội khoá IV, Uỷ viên Liên minh Quốc hội thế giới của Việt Nam; Uỷ viên Trung ương Đảng Xã hội Việt Nam (sáng lập), Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Xã hội Việt Nam Thành phố Hà Nội; Giáo sư là Anh hùng LLVTND.

 Ông là con thứ năm của cụ Đỗ Xuân Đạt - một gia đình nghèo có truyền thống hiếu học và yêu nước ở  phố Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Khi cụ Lương Văn Can cùng những chí sĩ yêu nước lập ra trường Đông Kinh Nghĩa Thục thì cụ Đạt dù không ra dạy, nhưng vẫn bí mật giúp đỡ tài chính cho trường.

Ngay từ nhỏ, cụ Đỗ Xuân Hợp đã nổi tiếng là cậu học trò giỏi nhất trường. Khi đậu ưu kỳ thi Tiểu học thì phần thưởng là những cuốn sách đã được ông chất đầy trong một tủ lớn! Sau này theo học trường Bưởi, ông cũng là học sinh giỏi, chăm chỉ và khiêm tốn giúp bạn học kém hơn mình. Mỗi tháng được nhận học bổng 8 đồng, ông dùng để nuôi hai em tiếp tục ăn học như mình.

Tốt nghiệp trung học với bằng Thành chung loại Uu, ông theo học trường Cao đẳng y dược Đông Dương (médecin indochinois) đến năm 1929.

Lúc này tình yêu đến với ông. Người yêu là bà Nguyễn Thị Thịnh - một nữ sinh trường Sư Phạm Hà Nội. Khi nên duyên thì người vợ đã cùng chồng lên đường nhận nhiệm sở. Là Y sĩ, Đỗ Xuân Hợp được phân công về nơi rừng thiêng nước độc ở Bắc Hà (Lào Cai) và gắn bó với nơi heo hút này 3 năm liền (1929-1932).

Trở về Hà Nội, ông theo học trường Y khoa Đông Dương. Nếu Bác sĩ Hồ Đắc Di là người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bác sĩ phẫu thuật tại Pháp thì Đỗ Xuân Hợp là người đầu tiên trợ giảng và hướng dẫn cho sinh viên thực tập trong khoa phẫu thuật của trường Y khoa Đông Dương. Từ năm 1934, y sĩ Đỗ Xuân Hợp bắt đầu làm việc với tư cách là trợ lý giải phẫu cho GS Pierre Huard, Giám đốc Viện Giải phẫu, Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội.

Năm 1942, ông cùng với thầy giáo của mình - GS Pierre Huard hoàn thành và cho xuất bản cuốn sách tiếng Pháp Morphologie humaine et anatomie artistique (Hình thái học nhân thể và giải phẫu học nghệ thuật). Ngay sau khi ra đời, cuốn sách đã tạo ra một tiếng vang lớn trên các diễn đàn y học thế giới lúc bấy giờ. Cuốn sách trở thành tài liệu tham khảo cơ bản, gối đầu giường cho nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác nhau như y học, mỹ thuật, nhân chủng học, khảo cổ học...

Ngay trong năm đó, ông có công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên về lĩnh vực giải phẫu. Cùng năm 1944, ông bảo vệ thành công luận án bác sĩ y khoa “Recherches sur le système osseux des Annamites” (Nghiên cứu bộ xương của người Việt Nam), trở thành bác sĩ chuyên khoa Giải phẫu học đầu tiên của nước ta. Tính từ 1942 đến năm 1944, ông công bố 88 công trình trên các tạp chí, chuyên san y học của Pháp.

1932-1945, ông là Giảng viên Trường Y dược Đông Dương.

Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ, ông đã hăng say đem khả năng chuyên môn cống hiến cho cách mạng, tích cực tham gia hoạt động của các tổ chức xã hội: ngày 27/3/1946 Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp làm Chủ tịch cơ quan Cứu tế xã hội Bắc bộ, kiêm chức Giám đốc Nha Cứu tế Trung ương, Bộ Xã hội. Ngày 28 tháng 6 năm 1946, Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp xin từ chức Giám đốc Nha Cứu tế Trung ương, được chấp thuận vào ngày 14 tháng 9 năm 1946 (thay thế là Nguyễn Hữu Viên, Chánh Văn phòng Bộ Xã hội từ 27/3/1946) và ông được bầu là Chủ tịch Hội Cứu đói toàn quốc, Chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến khu phố Chợ Hôm, Chủ tịch Hội Hồng thập tự,...

Khi toàn quốc kháng chiến nổ ra thì Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp bỏ lại sau lưng căn Biệt thự số 69 phố Trần Xuân Soạn ở Hà Nội, bỏ lại những tiện nghi vật chất để lên đường tòng quân vì Tổ quốc (bấy giờ ông đang giảng dạy ở Đại Học Y khoa, chữa bệnh ở bệnh viện Phủ Doãn và còn có cả phòng mạch tư ở phố Chợ Hôm).

  Tập sách “Giải phẫu tứ chi và Thực hành y khoa” được xuất bản năm 1952 tại Việt Bắc (bằng tiếng Việt in trên giấy dó ở chiến khu) là tài liệu chính giảng dạy trong các trường Y mà còn là cẩm nang quý báu cho cán bộ quân y tham khảo để phục vụ thương binh ngay tại chiến trường. Với tác phẩm này, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi và Chính phủ tặng Huân chương Kháng chiến Hạng ba.

Khi Hòa bình lập lại, Giáo sư, ngoài việc giảng dạy, nghiên cứu còn từng bước hoàn chỉnh, bổ sung, viết mới thành một bộ sách giải phẫu, bao gồm 4 cuốn: Giải phẫu đại cương, giải phẫu đầu mặt cổ, Giải phẫu thực dụng ngoại khoa tứ chi, Giải phẫu ngực, Giải phẫu bụng và chúng được nhiều lần tái bản. Đây là những cuốn sách “gối đầu giường” của SVYK. Đó là một trong những cống hiến để Bác sĩ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và kỹ thuật đợt đầu tiên (Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I do Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định số 991 KT/CTN ngày 10/9/1996  trao cho 33 công trình, cụm công trình khoa học công nghệ và 44 cụm tác phẩm thuộc lĩnh vực Văn học – Nghệ thuật trong đó: Khoa học y - dược 13 giải).

Thầy cũng là người có công “Việt hóa” các từ Y khoa, đưa tiếng Việt vào giảng dạy trong các trường Đại học…

Tính từ năm 1934 đến năm 1985, tức là từ khi bắt tay vào nghiên cứu khoa học đến khi rời cõi tạm, GS Đỗ Xuân Hợp đã công bố 125 công trình về nhân trắc học và hình thái học người Việt Nam.

Ông còn là một trong những người sáng lập ra Đảng Xã hội Việt Nam và ở trong Ban chấp hành Trung ương Đảng Xã hội từ năm 1946-1985. Trên lĩnh vực chuyên môn, GS Đỗ Xuân Hợp là người sáng lập ra Hội Hình thái học Việt Nam (27/10/1967) và giữ chức Chủ tịch kiêm Tổng biên tập của tờ báo Hình thái học liên tục trong 18 năm liền.

GS Đỗ Xuân Hợp là Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và không đứng trong hàng ngũ của Đảng như chính Bác Hồ nắm tay người bác sĩ chân tình: “Chú Hợp là người cộng sản không ở trong Đảng”.

 Riêng với Quân y:

 - Năm 1950-1960, ông là Viện trưởng Viện Quân y Liên Khu X (đóng ở Quế Trạo); Hiệu trưởng kiêm Chủ nhiệm Bộ môn giải phẫu Trường Quân y sĩ Việt Bắc, Trường Sĩ quan quân y (được thành lập ở cánh rừng Liễn Sơn, xã Hồng Hoa, huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phú); Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp nhận thêm nhiệm vụ Chủ nhiệm Bộ môn giải phẫu Đại học Y khoa Hà Nội do Bác sĩ Hồ Đắc Di làm hiệu trưởng ban đầu (1954-1985). Ngoài sách về Giải phẫu đã dẫn ở trên còn có thể kể đến những tác phẩm y học ông viết trong thời gian chống Pháp như Triệu chứng học, Dược học, Thực hành bệnh viện...

-Đầu năm 1950, Bác sĩ thôi giữ chức Viện trưởng Viện Quân y liên khu X và được cử làm Trưởng phòng Huấn luyện Cục Quân y. Ông cho thành lập Ban Tu thư và Ấn loát tài liệu, giáo trình của Cục.

 - Năm 1951, bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ lúc bấy giờ đang là Hiệu trưởng Trường Quân y sĩ được cử sang Liên Xô học bổ túc chuyên môn, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được cử làm Hiệu trưởng nhà trường. Bắt đầu từ đây cho tới lúc nghỉ hưu (năm 1978) gần 30 năm, ông gắn bó với sự nghiệp đào tạo của trường Quân y sĩ (1951-1957), rồi Trường Sĩ quan quân y (1957-1962), Viện Nghiên cứu Y học quân sự (1962 – 1966), Trường Đại học Quân y (1966 – 1981) và sau nhiều lần đổi tên, ngày nay là Học viện Quân y. Thầy là Hiệu trưởng trường này từ tháng 01/1951 đén tháng 3 năm 1979. Đây là quãng thời gian khóa DH9 chúng tôi học (1974-1981), là khoá đầu tiên có SV là CAND học bên trường thuộc BQP. Khóa chúng tôi ngày đó mang mật danh 69 ĐHQY có khá nhiều kỷ niệm, ấn tượng với Giáo sư. Khi chúng tôi nhập trường, giáo sư là Hiệu trưởng và là người giảng bài học đầu tiên về “Chính trị” và “Giải phẫu” tại Hội trường lớn cho sinh viên toàn Khóa! Chính vì vậy, trong cuốn KỶ YẾU BÁC SĨ QUÂN Y DÀI HẠN 9 HỌC VIỆN QUÂN Y vừa ra mắt 3/2020 có hẳn 1 trang (T16) viết về Thầy với bức ảnh thầy mặc quân phục “gặp gỡ các Dược sĩ, Bác sĩ trước khi lên đường nhận nhiệm vụ”!

Trước đó chúng tôi đều từng nghe danh, được thụ giảng và ngưỡng mộ GsBs Đỗ Xuân Hợp. Cụ không chỉ là một cây đại thụ của ngành y Việt Nam và cũng là cây đại thụ của ngành Giải phẫu học Việt Nam mà còn là cây đại thụ, người thầy của bao thế hệ Bs Quân y. Vì vậy ngay từ 1955, cùng với 10 nhà Y, Dược xuất sắc, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được phong hàm Giáo sư đợt đầu tiên của Việt Nam.

Với cấp hàm Thiếu tướng, Danh hiệu cao quý AHLLVTND (năm 1985) nên Cụ cũng là một trong những người có cấp hàm cao, vị trí quan trong trong ngành Quan y nhưng lại là người không có tên trong danh sách đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông là Phó Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam từ khi thành lập; sáng lập viên và là Chủ tịch Hội Hình thái học Việt Nam (1965-1985)

 Ngoài ra, Giáo sư còn được giải thưởng Testut của Viện Hàn lâm Y học Pháp năm 1949 về cuốn sách mà ông và thầy Pierre Huard viết từ năm 1942 (một giải thưởng lớn về y học của Pháp cũng như của ngành giải phẫu quốc tế mà ông là người Việt đầu tiên, người thứ 10 trên thế giới được nhận nhưng cũng chính ông lại từ chối việc đến Paris nhận giải thưởng Testut cùng với số tiền thưởng 32000 USD để ở lại phục vụ kháng chiến. Hơn 30 năm sau (1980) GS Tôn Thất Tùng là người Việt Nam thứ 2 đồng thời là người thứ 10 trên thế giới được nhận giải thưởng cao quý này. Sau này, khi Tổng thống Pháp Francois Mitterrand sang thăm Việt Nam có gặp vợ cố Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp. Trong trò chuyện thân mật, bà có nhắc đến chuyện này, điều chúng ta không ngờ là chỉ thời gian sau, Viện hàn lâm y học Pháp đã gửi đến cho gia đình cố bác sĩ tấm bằng này).

  Trong nước, Giáo sư còn nhận được nhiều phần thưởng: Anh hùng LLVTND,  Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng nhì; Hai Huân chương Quân công hạng nhất; Huân chương Quân công hạng ba; Huân chương Chiến thắng hạng nhất; Huân chương Chiến công hạng nhất, hạng ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất; Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba; Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.

Nhưng chính tôi, 1 thành viên của K9 HVQY, sau này mới biết, người thầy của mình từng 3 năm (1929-1932) làm việc rất có uy tín tại một huyện miền núi ở Lào Cai quê tôi, huyện Bắc Hà khi mới là Y sĩ!

Bài viết sau đây trích từ bài “Giáo sư ĐỖ XUÂN HỢP, VỊ ANH HÙNG QUÂN Y NGOÀI ĐẢNG’ đăng trên http://khampha.vn/.

*

Xuất thân trong một gia đình trí thức ở Hà Nội và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền giáo dục Nho học nhưng Đỗ Xuân Hợp lại sớm chịu tác động của Tây học. Tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương năm 1929 được chính quyền Pháp phân công làm Quan Đốc tại Bắc Hà, Lào Cai.

Công việc thường ngày của ông là buổi sáng khám chữa bệnh cho các bệnh nhân là sĩ quan và binh lính người Pháp, buổi chiều dành cho nhân dân sở tại. Cũng có khi ông làm việc ở đồn binh của Pháp.

Không những nhận được cảm tình của binh lính Pháp, Quan đốc Đỗ Xuân Hợp cũng được người dân yêu mến, tin tưởng. Quan đốc khám bệnh cho người dân tộc thiểu số không lấy tiền, thường chỉ lấy tiền thuốc, có nhiều trường hợp bệnh nhân không có tiền ông lại phải bỏ tiền túi ra cho, hoặc phát thuốc miễn phí.

Cuộc sống ở Bắc Hà tưởng chừng rất bình yên, vị Quan đốc cũng không nghĩ đến việc sẽ thay đổi nơi làm việc vì điều kiện sinh hoạt ở đây rất tốt, tình cảm nhân dân và chính quyền dành cho ông cũng rất trọng vọng thì một biến cố bất ngờ xảy ra. Tháng 2-1932, một nhóm cướp nổ súng tấn công vào cơ sở y tế nơi Quan Đốc Đỗ Xuân Hợp làm việc và cướp đi rất nhiều thứ. May mắn lắm vợ chồng ông mới trốn thoát được lưỡi hái của tử thần. Kể từ đó, ông nhen nhóm ý định xin về Hà Nội để làm việc. Ông bàn bạc với vợ đăng ký học hàm thụ từ xa để thi lấy bằng tú tài toàn phần.

Những tâm sự của vị Quan đốc lúc bấy giờ được vợ - bà Nguyễn Thị Thịnh ghi lại trong hồi ký sau này: “Bây giờ chỉ có cách học, học thêm rồi chờ thời. Trước kia nhà anh nghèo, không có tiền sang Pháp học. Bây giờ có tiền rồi, anh sẽ học thêm, học hàm thụ ở trường đại học hàm thụ Pháp ở Paris. Em sẽ cùng học với anh, hai chúng mình thi đua nhau cho vui, học một mình buồn lắm”.

Được sự động viên của vợ và có chút tiền do chính quyền bảo hộ bồi thường sau vụ cướp, vị Quan đốc trẻ tuổi gửi điện sang Pháp mua các tài liệu cần thiết để hai vợ chồng cùng ôn thi tú tài. Những năm 1930, dưới thời thuộc Pháp, những ai không có điều kiện học trực tiếp thì có thể học hàm thụ từ xa thông qua con đường bưu điện. Sau nửa tháng gửi điện sang Paris, Đỗ Xuân Hợp đã nhận được đầy đủ tài liệu hướng dẫn học.

Đỗ Xuân Hợp cùng vợ dành thời gian, tập trung ôn luyện. “Chúng tôi học rất nghiêm chỉnh. Sáng anh lên đồn sớm hơn để trưa về sớm hơn, chiều ở nhà học, góp ý kiến với nhau làm bài. Đều đều hàng tuần chúng tôi gửi bài sang Paris chấm (gửi mở như các tài liệu in, rẻ tiền hơn là gửi kín) và đều đều nhận được những bài làm trước của mình đã được chấm, có điểm, có phê phán tỉ mỉ, kèm theo các bài mẫu hướng dẫn cách làm hoàn hảo”.

Ít lâu sau, có thông báo tuyển trợ lý giải phẫu cho trường Đại học Y ở Hà Nội. Đó là thời cơ để ông về Hà Nội công tác và cũng là ngã rẽ quan trọng bậc nhất trong cuộc đời. Đó là động lực giúp Đỗ Xuân Hợp cố gắng học tập, không quản khó khăn. Bà Thịnh ghi lại: “Việc học của anh vất vả quá: vừa đi làm, vừa học thi tú tài, vừa học thi giải phẫu. Anh học cả chiều, cả tối”.

Sau gần một năm miệt mài với sách vở, cuối năm 1932, hai vợ chồng trở về Hà Nội để thi tuyển. Bấy giờ, toàn Đông Dương có 5 người dự thi, trong đó có 2 người Pháp mà chỉ tiêu thì chỉ lấy có 1. Đỗ Xuân Hợp đỗ đầu và là người duy nhất được nhận vào vị trí trợ lý giải phẫu cho GS Pierre Huard - Giám đốc Viện Giải phẫu, Hiệu trưởng trường Y khoa Đông Dương.

Sau khi thi đỗ, vợ chồng ông từ biệt Bắc Hà trở về Hà Nội bắt đầu một chương mới trong sự nghiệp. Công việc trợ lý cho GS Pierre Huard diễn ra vào các buổi chiều, còn buổi sáng Đỗ Xuân Hợp lên Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt - Đức) làm trợ lý cho GS Solier (người Pháp) về chuyên khoa Tai - Mũi - Họng. Vào buổi tối, ông vẫn tiếp tục học tập theo chương trình hàm thụ ở Pháp để chờ đến kỳ thi tú tài sẽ diễn ra vào mùa hè năm 1933. Do có chứng nhận của trường đại học hàm thụ Pháp ở Paris, Đỗ Xuân Hợp và vợ được dự thi tự do và đỗ trong kỳ thi tú tài năm ấy.

-         Lương Đức Mến, BS từ nhiều nguồn TK-

Nhấn vào đây để đọc toàn văn...

18 tháng 8 2024

Tìm hiểu về việc CHẠY MỘ

Từ khi bước ra khỏi thời dã man là lúc con người khi sống thì ở trong nhà, còn khi chết nằm dưới mộ. Do vậy, việc “mồ yên, mả đẹp” sẽ khiến cho người đã mất được “sống” ở cõi âm một cách an lành, hạnh phúc, từ đó phù hộ con cháu trên trần gian được an yên, gặp nhiều may mắn, mọi việc hanh thông.

Nói thì vậy nhưng cuộc sống có lắm bất ngờ và nhiều ý kiến đôi khi trái ngược nhau, đúng có, sai có, lợi có, hại có!

Ngữ nghĩa:

Mộ (gọi chung là mồ mả, A: Grave, P: Tombe, H: 坟墓) là nơi người chết được chôn cất hay còn được gọi là nơi người đã vĩnh viễn ra đi an nghỉ (sống gửi thác về 生寄死歸) theo hình thức Địa táng (A: Burial, P: Enterrement, H: 土葬). Nếu dưới nấm đất đó không có thi xác, hài cốt thì đó là Mộ gió, mộ vọng (https://holuongduclaocai.blogspot.com/2019/11/mo-vong-va-nghi-thuc-lap.html).

Nấm đất đó gọi là mộ phần hay phần mộ (A: The tomb, P: Le tombeau, H: 墓墳) và ngày nay thường được xây có bia đá. Những nơi chôn cất mồ mả được gọi là nghĩa địa hay bãi tha ma.

Theo quy định tại Mục 3 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9412:2012 về Mộ và bia mộ - Tiêu chuẩn thiết kế thì:

Mộ phần/Phần mộ là nơi lưu giữ hoặc chôn cất thi hài, hài cốt của người chết bao gồm huyệt mộ và phần địa tĩnh xung quanh.

Bia mộ (A: The tombstone, P: La pierre tumulaire, H: 墓碑) là tấm đá (bê tông,…) ghi tên, tuổi, quê quán, ngày mất người chết được đặt trên mộ. Tùy theo yêu cầu, trên bia mộ có thể có thêm di ảnh và các thông tin về học vị, chức vụ của người chết. Có khi có cả Mộ chí (A: Epitaph, P: Épitaphe, H: 墓誌) là bài văn ký sự ghi trên bia đặt nơi mộ, nói về quê quán, phẩm tước và công danh, sự nghiệp của người chết. Hiện nay, Mộ chí được hiểu là phần mộ chỉ có bia mộ đặt trên đó mà bên trong không có hài cốt của người được chôn cất.

Mộ hung táng là nơi chôn cất thi hài của người chết xuống dưới mặt đất trong một khoảng thời gian nhất định (từ 3 đến 5 năm).

Mộ cát táng là nơi chôn cất hoặc lưu giữ hài cốt xuống dưới đất sau khi hung táng.

Địa hỏa táng là hình thức lưu giữ tro hài cốt xuống mặt đất sau khi hỏa táng.

Địa tĩnh là phần đất thuộc mộ phần xung quanh huyệt mộ

Mộ chôn cất một lần là nơi chôn cất thi hài của người chết xuống mặt đất vĩnh viễn mà không phải qua giai đoạn cải táng.

Ngăn lưu cốt hỏa táng là nơi lưu, cất giữ tro hài cốt hỏa táng

Theo quy định tại Mục 4 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9412:2012 về Mộ và bia mộ - Tiêu chuẩn thiết kế là:

- Sử dụng đất đúng mục đích, có hiệu quả và bảo đảm các yêu cầu về mỹ quan, cảnh quan và vệ sinh môi trường

- Việc phân khu chức năng, phân lô mộ, nhóm mộ, hàng mộ, khoảng cách giữa các mộ phải thuận tiện cho việc thực hiện các nghi lễ táng.

- Kích thước, kiểu dáng các mộ, bia mộ phải đảm bảo kích thước theo quy định tại 6.7 của tiêu chuẩn này và được sự chấp thuận của chính quyền địa phương theo phân cấp quản lý

- Phải có hệ thống thu gom và xử lý nước thải, rác thải từ các khu vực chôn cất các mộ phần để tránh bị úng ngập cũng như tránh rò rỉ nước của nghĩa trang ra khu vực xung quanh

- Phải có giải pháp trồng cây xanh, vườn hoa, thảm cỏ trong nghĩa trang

- Các chỉ tiêu liên quan đến yêu cầu quy hoạch và thiết kế nghĩa trang tham khảo các quy định trong TCVN 7956 : 2008 và các quy định về công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị.

Mặt khác tại tiểu mục 5.1 Mục 5 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9412:2012 thì diện tích đất tối đa cho một phần mộ cá nhân được quy định:

- Diện tích sử dụng đất cho mỗi mộ hung táng và chôn cất một lần: người lớn: không lớn hơn 5,0 m2; trẻ em: không lớn hơn 3,0 m2;

- Diện tích sử dụng đất cho mỗi mộ cát táng, địa hỏa táng: không lớn hơn 3,0 m2.

- Thể tích ô để lọ tro hỏa táng: ≤ 0,125 m3/ô

Phần mộ bao gồm: Huyệt mộ, Nơi thắp hương, Bia mộ, Cây xanh trên mộ và xung quanh mộ.

Kích thước tối đa của các mộ phần và huyệt mộ phù hợp với quy định về các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị .

Từ xưa ông cha ta vẫn cho rằng, việc động mộ cực kì nguy hiểm và hệ trọng. Ngôi mộ bị động thường có những dấu hiệu sau:

- Hình dạng bên ngoài của mộ bị thay đổi, đất bị lún sụt, mộ đá, bia đá hoặc bát hương bị phá vỡ bởi tác nhân con người, động vật, hoặc do thời tiết: Phần mộ bị sụt lún, lõm hẳn xuống hoặc sụt ở một góc của mộ;

- Xung quanh ngôi mộ có mùi, bị ô nhiễm, đất đai tanh hôi, trường khí nặng nề, rất khó chịu;

- Khu mộ bị ngập nước, có vũng nước tù đọng;

- Người đã mất hay “hiện về” báo mộng, trách mắng con cháu;

- Trâu bò giày xéo, phóng uế, có người đào mương, xẻ rãnh,… phá vỡ sự yên lặng vốn có của khu đất;

- Cây cối xung quanh bị chết, rễ hay cây mọc ngầm từ dưới, xuyên qua đội nắp tiểu lên khiến người âm không được yên;

- Gia đình khác xây mộ sau chèn đè lên;

- Thầy phong thủy hoặc thầy bói phán.

Hiện tượng này thì nhiều và được quy thành 2 dạng: động phần Dương và động phần Âm để có cách hóa giải phù hợp:

Động phần Dương: là trạng thái ngôi mộ không còn giữ được hình dạng ban đầu. Mộ động phần Dương có thể dễ nhận thấy như: sụt lún khiến mộ bị nghiêng, phần xây bằng xi măng nứt gãy, bát hương bị vỡ do tác nhân bên ngoài (địa chất thay đổi, rễ cây đâm to, trâu bò, trẻ con nghịch…). Khi đó làm lễ tạ thổ thần (Lễ này gồm 1 bát cơm kèm 1 quả trứng gà luộc,  rượu, vàng mã, trầu cau, nước, quần áo, ngựa mã, hoa quả). Cần cúng tạ mộ và tốt nhất là mời thầy pháp.

Động phần Âm: đây là trạng thái động theo tâm linh, ngoại cảm, thường nhận biết qua việc đi xem thầy bói phong thủy hoặc gia tiên báo về qua người trên dương trần. Gặp khi chôn, gia chủ không xem hướng, khu đất đó không “sạch” hay do mạch nước ngầm chảy vào, rễ cây, cây cỏ đâm xuyên qua mộ, đất đá sạt lở vào bên trong mộ,…khiến người đã khuất bị quấy rầy. Lúc này, gia chủ nên làm lễ cải táng lần 2, đặt lại (tiểu sành) vào nơi “đất đẹp” để người mất được an yên. Đây là việc khó xử lý nhất. Bởi ai biết “dưới âm” thế nào, nơi mới ra sao (về mặt tâm linh). Lại còn câu “giữ như giữ mả Tổ”, trừ khi không làm khác được (cơ quan có thẩm quyền của nhà nước quy hoạch) mới phải “chạy mồ, chạy mộ” cho người mất !.

Nhớ rằng đây là vấn đề tâm linh, chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Tuy nhiên, để giải quyết vấn đề “tâm lý”, hợp câu “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” khi thấy những dấu hiệu kể trên chúng ta nên di dời, hoặc tìm cách để ngôi mộ sạch sẽ, người mất an yên mà người sống cũng thoải mái, không bị dằn vặt. Dù bằng cách nào, cũng cần mời thầy cúng đến làm lễ tạ mộ và xin phép thổ thần thổ địa.

Lăng mộ (A: Mausoleum, P: Mausolée, H: 陵墓 còn gọi là lăng tẩm, lăng) là một công trình kiến trúc ngoài trời được xây dựng bao quanh nơi chôn cất người chết. Lăng mộ có thể được xem là một dạng của mộ, mộ có thể chứa bên trong lăng mộ.

Trong lịch sử, lăng mộ thường là những công trình lớn và ấn tượng dành cho một nhà lãnh đạo quá cố hoặc người quan trọng khác.

Mươi năm trước, khi phần đông dân xóm tôi còn nghèo việc ma chay cúng đơn giản, khu nghĩa địa các ngôi mộ đặt chẳng ra hàng, ra lối gì mà tùy theo sự chọn hướng cũng như túi tiền của gia chủ. Nhưng nhìn chung là thấp, đắp đất, trâu bò thả ra đẵm chán rồi lại húc,...Cây cỏ mọc um tùm, nước chẩy lênh láng,! Về sau, có nhà xây mộ nhưng vì chưa có quy hoạch nên cái cao, cái thấp, cái to, cái bé, không theo hàng lối gì,…tường rào, đường vào, nhà chờ, … không có! Nhưng thôn xóm cũng đâu có sao, nhà làm ăn cũng đã thoát nghèo, con cháu học hành đều phát đạt cả,…

Nay thì khác lắm rồi! Người ta đua nhau xây “nhà cho các cụ” với nhiều kiểu “lạ mắt”, người sau to hơn, cao hơn người làm trước,…

Mặt khác nhiều người còn mua đất “dự trữ” cho tương lai hay mở rộng thành “nghĩa trang dòng họ” có cớ để “chạy mả”, “dồn mộ” mà chả do cơ quan công quyền nào bắt buộc, chỉ nhằm quy tụ, lo cho ông bà, tổ tiên để các cụ “khúc khích mỉm cười nơi chín suối”. Nhà có điều kiện đã vậy, nhà dù điều kiện không có, nhưng cố gắng sao cho xây, ốp lát to đẹp bằng hàng xóm. Nếu úi xùi quá, e các cụ dưới đó tủi thân, con cháu phát xấu hổ và “khó ngẩng mặt với đời”, vì thế phải “bổ bán”, tranh luận nhau dẫn đến “tan đàn xẻ nghé”. Người mất mà thấy được hiểu rõ chuyện đó chắc cũng chẳng vui thú gì.

Ai cũng biết, mồ mả là quan trọng, “Sống nhà, chết mồ” mà. Người muốn chuyển, quy tập có cái lý gần như trên; người không muốn thì lại: “Các cụ đã mất, con cháu đáng yên ổn, các cụ chôn ở đấy rồi, để các cụ nghỉ ngơi, không chuyển đi đâu nữa”,…

Theo tôi, dù chôn cất các cụ với hình thức nào, to bé ra sao, thì con cháu đều phải đoàn kết, bảo ban nhau, tuân thủ theo quy định của Ban quản lý nghĩa trang, không ảnh hưởng đến mỹ quan và quy định của địa phương. Đặc biệt cần có óc “duy vật biện chứng” và tôn trọng lịch sử, cội nguồn!

Nhân đây, cũng xin nhắc lại khi chôn cất để tránh bị động mồ mả

- Chọn đất ở những nơi trong lành, thanh tịnh. Tránh những nơi đông đúc, ồn ào như nơi công cộng, khu công nghiệp nặng, đường giao thông,… để âm trạch khỏi bị nhiễu, con cháu dễ gặp điều dữ, học hành sa sút, hư hỏng,...Đặc biệt không nên đặt mộ gần cây to, lắm rễ,…Đất ấy nên khô ráo, không có nước đọng, nặng mùi,…để tránh con cháu bị bệnh, chết bất đắc, không có con trai nối dõi. Tránh “tả Thanh long” “Hữu Bạch hổ” giao nhau (núi đồi bên trái mộ và những núi đồi bên tay phải mộ chụm vào nhau ở phía trước) nhằm tránh loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau.

- Không chôn vào chỗ đất đã có người chôn, hoặc có xương thú ở dưới dù khu đó có đắc địa tới đâu nhằm tránh con cháu bị bệnh nặng, ngừa trùng tang.

 - Khi đào huyệt tránh “nghịch Long”, tức đầu mộ để dưới thấp, chân hướng trên cao phòng con cháu bất hiếu, bất trung,...

- Cần đặt đúng hướng (theo tuổi người mất hay tuổi chủ tang), Hạ huyệt chọn ngày giờ cho sát hợp,…

- Không nên đóng đinh, sắt thép vào quan tài, loại bỏ những vật bằng kim loại trên quần áo, trừ LLVT có quy định riêng.

- Bia mộ phải đặt phía trên đầu nếu đặt dưới chân con cháu sẽ vất vả, nghèo đói.

- Mộ kết (khí, thủy, mối) mà cứ bóc, cải táng nhằm tránh con cháu lụi bại.

Vĩ thanh:

Mai táng người chết và thái độ của con cháu với “ngôi nhà mới” của tổ tiên là vấn đề tâm linh, tuy có từ lâu đời và ai, nhà nào, dòng họ nào, địa phương nào cũng từng thực thi nhưng chưa tìm thấy sự hướng dẫn chúng rõ ràng, lời giải đáp thỏa đáng. Chính vì vậy nó có lắm biến dị theo thời gian thời cuộc và không gian vùng miền, tôn giáo. Song cứ làm theo cái chung phổ biến tại làng xã nơi cự ngụ thời điểm xẩy ra là ít bị chê cười! Chớ bị lôi cuốn theo “tâm lý đám đông” và sự “bày vẽ” của các “thầy bà” và đám “trọc phú” lắm của nhiều tiền!

Cốt nhất ở cái Tâm mọi thành viên liên quan, nhất là người chủ sự chứ “xương người chết sao cầu được phúc” !

-         LĐM, BS từ nhiều nguồn TK, đêm thứ Bẩy rạng Chủ nhật ngày Rằm tháng Bầy Giáp Thìn-

Nhấn vào đây để đọc toàn văn...

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!