Tượng Lương Đắc Bằng (lấy trên In) |
Lương Đắc Bằng (梁得朋, 1472 – 1516)[1] hồi nhỏ tên là Tử Ngạn (Ngạn Ích) là con của Giải nguyên Lương
Hay (梁哈, 1401–
1484)[2]
và bà Lê Thị Sử hiệu Từ Hạnh. Bà vốn con nhà khoa bảng ở làng Vĩnh Trị, cũng
ham thích văn chương, đôn hậu cho nên vừa là người vợ nội trợ đảm đang, lại vừa
là người bạn cầm kỳ thi phú, cùng chồng dạy dỗ con cái. Từ nhỏ Ngạn Ích thông minh
xuất chúng, nổi tiếng là Thần Đồng đất Cổ Hoằng. Năm 8 tuổi khi đi chơi ở
Lam Sơn, qua bến đò Từ Minh, gặp một vị Sư, đã cùng nhau làm thơ, khiến vị Sư
kia rất khâm phục[3].
Năm 12 tuổi (1484, khi cha mất), theo lời cha dặn đã ra Bắc thọ nghiệp học
trò cha mình là Trạng nguyên Lương Thế Vinh ở Cao Hương.
Năm 1495 trong kỳ thi Hương 乡试/秋闈
Lương Ngạn Ích đỗ đầu, tức Giải nguyên 解元. Ngày 09 tháng 4 năm Cảnh
Thống thứ hai (景統苐二年, Kỷ Mùi, 1499) đời vua Lê Hiến Tông (黎憲宗, 1498-1504) khi Lương Ngạn Ích thi Hội 會試 kinh nghĩa, thơ phú đều đầu bảng. Bắc quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc
Hoa Lâm hầu Trịnh Tốn và Lại bộ Thượng thư Trần Cận làm Đề điệu[4];
Hình bộ Thượng thư Đinh Bô Cương làm Giám thí; Đông các học sĩ Nguyễn Bảo, Hàn
làm viện thị giảng Tham chưởng hàn lâm viện sự Lê Ngạn Tuấn làm Độc quyển đã lấy
ba người là Đỗ Lý Khiêm, Lương Ngạn Ích, Nguyễn Khắc Kiệm đỗ Đệ Nhất giáp Tiến
sĩ cập đệ 第一甲三名賜進士及第; Hoàng Trưng, Nguyễn Hằng… đỗ Đệ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Trần
Bá Lương, Lê Tự …đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ xuất thân, tất cả 55 người. Việc truyền
loa xướng danh diễn ra tại điện Kính Thiên 敬天, bảng vàng treo cửa Đông Hoa 東華 được thực hiện vào ngày 16.
Kỳ thi này do có nhiều điều
dị nghị về thứ bậc Tam khôi, để thử tài thật sự của các vị tân khoa, ngày 10
tháng 7 vua tuyên triệu số tiến sĩ vừa đỗ vào làm bài thi ứng chế ngay tại sân
rồng 賜對于廷, do đích thân nhà vua ra đề,
tức thi Đình 殿试[5]. Khi hỏi về nhân tài, vương chính với đề 五王帐 “Ngũ Vương trướng”[6] Lương
Ngạn Ích được ưu hạng 優等, Hiến Tông Hoàng đế cho tên ông là Đắc Bằng, thuỵ Đạm Hiên tiên
sinh. Nhưng theo ý hoàng hậu thì Trạng
nguyên 狀元 phải là
người trọng trấn, vì ông còn trẻ nên vua hạ bảng cho đỗ Đệ Nhất giáp Tiến sĩ cập
đệ Đệ Nhị danh 第一甲進士及第第二名 (tức Bảng nhản 榜眼), lấy Đỗ Lý Khiêm[7]
đậu Trạng nguyên. Vua Hiến Tông có ngự chế “Thi nhị thủ vân” 詩二首云 tặng hai vị Tiến sĩ đệ nhất
giáp (Đắc Bằng, Lý Khiêm) 2 bài thơ[8].
Sau khi thi đỗ, Lương Đắc Bằng được bổ làm Hàn lâm học sĩ 翰林學士, từng cùng các đại nho: Đông các học
sĩ Nguyễn Nhân Thiếp, Lê Ngạn Tuấn, Lê Mậu Thưởng, Nguyễn Xung Xác, Hàn lâm viện
thị thư Nguyễn Tôn Miệt, Đông các hiệu thư Đặng Tòng Củ, Đặng Minh Khiêm, Hàn
lâm viện hiệu lý Nguyễn Viên, Vũ Châu, Hiệu thảo Nguyễn Mẫn hoạ lại bài thơ ngự
chế: 觀架亭中秋玩月 Quan Giá đình trung thu ngoạn nguyệt[9]
15 vần của Vua vào Rằm tháng Tám năm Cảnh
Thống thứ 2 (Canh Thân, 1500).
Được vua yêu, Đắc Bằng lĩnh chức Tả thị
lang Bộ Lễ 禮部左侍郎 (như
Thứ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin-Giáo dục nay), sau làm
Tả thị lang Bộ Lại 吏部左侍郎 (như
Thứ trưởng Bộ Nội vụ nay) và có nhiều đóng góp và công
cuộc phát triển văn hóa, cất nhắc quan lại của triều đại.
Cuối thế kỷ XV triều Lê đã có dấu hiệu
đi xuống. Khởi đầu là việc Lê Uy Mục (黎威穆, 1488 – 1509, húy là Lê Tuấn 黎濬) ăn chơi vô độ, ham rượu chè, gái đẹp,
tàn bạo giết hại nhiều người vô tội. Vì vậy Phó sứ thần Trung Quốc là Hứa Thiên
Tích mới gọi là vua quỷ 鬼王. Thêm vào đó, bọn hoạn quan
thọc vào chính sự, kẻ ngoại thích 外戚 (Khương Chủng
姜种, Nguyễn Bá
Tuấn 阮伯勝) mặc sức chuyên quyền, pháp
luật phiền hà, kỷ cương rối loạn, nông tang tiêu tàn, phong tục suy đồi,
đời sống điêu linh, dân không chịu đựng nổi, điềm loạn xuất hiện từ đấy[10].
Trong bối cảnh đó, tháng 11 Kỷ Tỵ 1509,
Lương Đắc Bằng được Giản Tu công Óanh 簡修公瀠 (trá xưng là Cẩm Giang Vương) thăng là Lại Bộ Thương thư, sai viết Hịch dụ đại thần và các quan 檄諭大臣百官 tố cáo và kêu gọi mọi người khởi
binh đánh Đoan Khánh Uy Mục. Là người thức thời, đặt chữ Trung đúng chỗ, giỏi văn ông đã chấp bút viết với những lời lẽ
sâu sắc, chặt chẽ[11].
Giản Tu công Oánh cùng những người theo kéo
lá cờ chiêu an, tiến quân đến sát Đông Kinh. Thất thế, Uy Mục chạy ra Nhật
Chiêu (nay là Nhật Tân, Hà Nội) rồi bị
bắt, trói ở cửa Lộc (Lệ) Cảnh và đã uống thuốc độc tự tử. Kinh thành yên, Lương
Đắc Bằng cùng Lê Quảng Thọ và các đại thần tôn Giản Tu công tự Oánh là Hoàng đế
tức vua Tương Dực (黎襄翼, 1495 – 1516). Lên ngôi, Oánh giáng Uy Mục
làm Mẫu Lệ Công 閔勵公, ân xá trong nước, đổi niên hiệu là Hồng
Thuận (洪 順, 1509-1516). Tháng Giêng năm sau,
Tương Dực luận công ban thưởng cho những người ứng nghĩa, trong đó ông: “…; Hàn
lâm viện thị độc tham chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng làm Lại bộ Tả thị
lang” (翰 林 院 侍 讀 參 掌 翰 林 院 事 梁 得 朋 為 吏 部 左 侍 郎). Sau ông được Tương Dực gia phong
Thượng thư Bộ Lại 吏部尚書 (như
Bộ trưởng Nội vụ nay), tước Đôn trung bá.
Nhưng về sau Lê Tương Dực lại đi theo vết
xe đổ đời trước, cho xây Cửu Trùng Đài 九重臺, đóng chiến thuyền bắt con gái khỏa
thân chèo chơi ở Hồ Tây, giết 15 vương công, gian dâm với các cung nhân của triều
trước… Vì vậy lòng người oán thán, gọi là vua lợn 豬王. Lương Đắc Bằng đã hết lòng can gián, Tương Dực biếm ông
xuống Lại bộ Tả thị lang (Thứ trưởng).
Nhân mẹ mất, ông xin về cư tang 居丧.
Đến tháng 10 năm Hồng thuận thứ 2 (Canh Ngọ, 1510), được Lê Tương Dực triệu
về triều phục chức Lại bộ Thượng thư kiêm Đại Học sĩ Đông các coi sóc tòa Kinh
Diên (nơi Vua đọc sách) 東閣大學士入侍經筵. Thấy tình hình đất ước rối ren, giặc bên
ngoài chưa yên, quyền thần đánh, chém giết nhau, chốn Kinh sư đẫm máu, cái điềm
vận nước ngày một suy đã xuất hiện, ông không nhận chức mà nhân đó soạn dâng kế
sách “Trị Bình” 14 chước 治平十四策 lên
Lê Tương Dực[12].
Với tất cả tài trí, tâm huyết của mình,
Lương Đắc Bằng đã khái quát được tất cả các việc cần làm để ổn định triều
chính, xã tắc, quan tâm đến dân tình. Vua xem khen nhưng không dùng[13].
Lúc này, loạn lạc nổi khắp nơi: Thân Duy Nhạc
京時申 và Ngô Văn Tổng
吳 文綜 dấy quân ở Kinh Bắc 京北; Trần Tuân 陳珣 đánh phá Sơn Tây 山西; Phùng Chương
馮章 quấy miền Tam Đảo 三島; Trần Công Ninh
陳公寧 chiếm giữ Phúc Yên
安朗; Lê Hy 黎熙, Trịnh Hưng 鄭興, Lê Văn Triệt 黎明撤 tung
hoành ở Thanh Nghệ 清華 乂安; Trần Cảo 陳高 mạo xưng là cháu chắt của Trần Thái Tông cùng con là Thăng 昇, tướng là Phan Ất 潘 乙 cùng với đồ
đảng dấy quân ở Hải Dương...Vua tôi
nhà Lê chẳng lo chấn chỉnh, dẹp loạn mà Tương Dực ngày càng hoang dâm, nghe lời
siểm nịnh; các đại thần chia bè, đem quân đánh lẫn nhau, ai cũng vỗ
ngực
phò vua, giúp nước, an dân...
Một lần bị quyền thần làm nhục, ông
nói “ tôi thà chịu chết vì chức vụ,
không chịu chết dưới loạn quân” nên
bị bọn chúng dùng gạch đá đả thương nặng. Sau nhờ có Đại thần Văn Quân, Công
Trinh, Duy Nhạc và rể là Tự Khanh Ngô Văn Dũ
thỉnh thầy thuốc chữa trị cả tháng mới phục hồi được. Đắc Bằng tập trung
tâm trí soạn tập “Vịnh sử” 詠史 kể từ
thánh quân, hiền thần, trung thần cho đến hôn quân, gian thần... hơn 20 quyển;
lại soạn “Cung trung bửu huấn” 恭忠寶訓, “Thập quy” 十規 để răn
dạy, nhưng trên chẳng dụng, quan chẳng nghe.
Nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình
thế ông cáo quan về nhà mở trường dạy học và nghiên cứu lý số. Nghe tiếng tài
năng và đức độ của ông nên khắp nơi trong nước có rất nhiều người đến xin thụ
giáo mà sau này thành danh, như: Đinh Bạt Tụy (quê ở Nghệ An, đỗ Tiến sĩ); Nguyễn Bỉnh Khiêm (người Hải Dương, đỗ Trạng nguyên); Nguyễn Mẫu Đối (đỗ Bảng nhãn); Lại Kim Bảng (đỗ Hoàng giáp); Nguyễn Thừa Hưu (đỗ Tiến sĩ)...
Đất nước lại rơi vào loạn lạc: Trần Cảo 陳高 dấy quân ở chùa Quỳnh Lâm 瓊林, chiếm cứ các huyện Thủy Đường 水棠 và Đông Triều 東潮 thuộc Hải Dương 海陽, tự xưng là vua “Đế Thích giáng
sinh” 帝釋降生, kéo về vây hãm kinh thành; một
lực lượng mới tập trung quanh Mạc Đăng
Dung trỗi dậy và quyền bính
dần sang tay họ Mạc rồi triều Lê Sơ (黎初, 1428-1527)
đến hồi mạt,
nhà Mạc (莫朝, 1527-1592)
nắm Vương quyền.
Đúng dịp đó, ngày 5 tháng 7 Lương Đắc Bằng bị bệnh nặng mất.
Biết tin dữ đó, thiên hạ đều tiếc, Đô Ngự sử Đỗ Cang[14] khóc rằng: “Triết
nhân sao nỡ chết, nước mắt còn huyết vây”…”Người trung nghĩa như Lương Đắc Bằng
đã qua đời thì vận mệnh nước nhà sắp mất đến nơi rồi”. Nhận được tin, học trò về chịu tang rất đông, riêng
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã về Hội Triều chịu tang thầy ba năm.
Lúc ấy kinh sư bị loạn không có ván gỗ, vua (Lê Cung Hoàng ?) ban gỗ cấm trong cung làm quan tài, đưa về quê nhà
ở Hội Triều mai táng[15]. Năm Quý Dậu[16] mộ phần được dời đến chôn ở Tây Trì Khái xứ (?), theo thế “tọa Bắc hướng
Nam”[17].
Vốn lúc lâm trọng bệnh, Lương Ðắc Bằng ủy thác Nguyễn
Bỉnh Khiêm trông nom con mình. Sau này, Cụ Trạng đã làm theo lời dặn của thầy
mà dạy Lương Hữu Khánh (梁有慶,1517 – 1590) thành tài, ngoài ra còn cưu mang con cháu của ân sư là cụ Lương Đắc
Cam, Thủy tổ một số dòng họ Lương ở Tiên Lãng và An Lão.
Tuy không thọ nhiều, nhưng là người thông minh, có tầm nhìn xa trông rộng,
xét việc có lý, có tình, có khả năng phân tích, đánh giá thời cuộc, am hiểu
dịch số, biết được lẽ hưng vong của đất nước, triều đại nên có nhiều công lao đóng
góp cho nền chính trị của đất nước trong thời gian ông làm quan trải bốn triều
vua thời Lê Sơ (Hiến Tông, Túc Tông, Uy
Mục, Tương Dực). Đặc biệt đã từng nhiều phen giúp mấy Vua giành,
giữ ngai vàng; được trao nhiều chức vụ quan trọng, được thăng đến Lại bộ Thượng
thư kiêm Đông các đại học sĩ, tước Văn phái Hầu. Đường Quan trường của ông
không mấy hanh thông nhưng do am hiểu thời cuộc, ngay thẳng, cương trực nên nổi
tiếng bởi từng can gián Vua, dâng kế sách cải cách. Cụ sống thanh liêm, có uy
tín lớn trong lớp nho sĩ danh thần. Đặc biệt ông đã đào tạo nhiều học trò trở
thành người tài[18]; tính kế lâu dài cho con là Hữu Khánh thành Danh Thần, để đích tôn Khiêm
Hanh (粱謙亨,1563-?) cũng không hổ
danh. Trong đời thường, tuy làm quan to
trong triều nhưng do thanh liêm nên gia đình nghèo. Tương truyền trước khi qua
đời, gia sản Cụ để lại cho vợ con chỉ có 5 gian nhà gỗ lợp lá kè (lá cọ), ba gian giữa dùng thờ gia tiên
và tiếp khách, hai gian đầu hồi là gian buồng và dăm ba sào vườn.
Cụ là người tài đức vẹn toàn, sách Nam sử (南史, Cours d'histoire annamite) của Trương Vĩnh
Ký có thơ khen rằng: “清時及第世榮觀/ 議論從忠炳若丹/ 十四策無從一策/ 當時勿怪治平難; đọc
là: “Thanh thời cập đệ thế vinh quan, Nghị luận tòng trung bỉnh nhược đan. Thập
tứ sách vô tòng nhất sách, Đương thời vật quái trị bình nan”; dịch nghĩa: Thời
thanh bình, thi cử đỗ đạt cho đời thấy được sự vinh quang, Nghị luận thể hiện
lòng trung sáng đỏ như son. Mười bốn kế sách trình lên không được dùng một kế
sách nào. Trị bình khó khăn, điều ấy đương thời không có gì là lạ. Lăng mộ của
ông được dòng họ và dân làng xây cất tại xóm Dân Hưng, làng Hội Triều mà trên
đó có đôi câu đối: 武烈文模科宦顯赫/ 南繁北衍繼世忠倫; đọc là: “Võ liệt văn mô khoa hoạn hiển hách; Nam phồn bắc
diễn kế thế trung luân”; nghĩa: Văn võ toàn tài, khoa danh hiển hách; Bắc Nam phồn
thịnh truyền đời trung luân. Bức đại tự treo ở nhà thờ họ Lương Hội Triều có viết
bốn chữ 道義清廉 (Đạo nghĩa thanh liêm) ca ngợi phẩm hạnh của Bảng nhãn[19].
Hình Lăng Lương Đắc Bằng do tôi tạo dựng ở trang http://www.nhomai.vn/forum/showthread.php?p=228442#post228442 |
Như thế ông đã để lại cho hậu thế nhiều bài học quý, xứng đại diện cho một
dòng họ Khoa bảng[20] ở vùng quê nổi danh: “Địa linh nhân kiệt” 地靈人傑, “Đất thiêng sinh ra người tài giỏi, xuất
chúng rồi lại vì người mà vùng đất ấy nên danh thắng”. Nhà Lê Trung hưng (黎中興,1533-1789) luận ông trung nghĩa, đức vọng cái
thế, tặng ông: Thái bảo đôn trung Văn
phái hầu, thuỵ Đạm Hiên tiên sinh.
Họ Lương Hội Triều nổi tiếng với Lương Đắc Bằng, Lương Hữu Khánh, Lương
Khiêm Hanh, Lương Đạt đều là Tiến sĩ. Đồng thời dòng họ này còn nổi danh với 2
cha con là thầy dậy của 2 Trạng nguyên tài giỏi nước Nam. Đó là người cha -
Giải nguyên Lương Hay là thầy học của Trạng lường Lương Thế Vinh và người con -
Bảng nhãn Lương Đắc Bằng là thầy học của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đến lượt
mình các ông Trạng này, theo di huấn và để trả ơn, họ lại rèn cặp con thầy nên
người: Lương Thế Vinh dạy con Lương Hay là Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm
dạy con Lương Đắc Bằng là Lương Hữu Khánh. Quả là thầy giỏi rèn nên trò tài, đạo
thầy trò xưa quả sâu sắc và 5 thế hệ truyền thừa (Lương Hay-Lương Thế Vinh-Lương Đắc Bằng-Nguyễn Bỉnh Khiêm-Lương Hữa
Khánh) với 4 thầy, 4 trò, 2 Trạng nguyên, 2 Thượng thư là hiện tượng hiếm
thấy trong lịch sử!
Lương Đắc Bằng được một số chi họ
suy tôn là Thượng Thủy Tổ dòng họ, trong đó có họ Lương ở Tiên Lãng và An Lão
thuộc Hải Phòng[21].
Đáng tiếc, trong các tư liệu đã tìm thấy và viện dẫn ở trên không thấy chép
việc có con cháu cụ Bảng nhãn sang xứ Đông nhờ cậy cụ Trạng Trình là ai, quan
hệ với Cụ thế nào, vào thời gian nào? Việc này chỉ có Gia phả họ Lương Tiên
Lãng chép! Mặt khác, như phần “1.5. Truy oan, họ vẫn ngoan cường” đã tìm hiểu
thì rất có thể Tổ thượng Lương Đắc Cam là con cháu Đô đốc Lương Thế Khôi đến
nương nhờ Cụ Lương Đắc Bằng và Bảng nhãn đã thay tên lót của họ để che dấu tung
tích, bảo vệ giọt máu của Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Nhưng tuân theo truyền
ngôn của tiền nhân, tôi vẫn tìm hiểu và chép chuyện Bảng nhãn Thượng thư Lương
Đắc Bằng vào đây để ghi nhớ.
Chúng ta suy tôn Cụ là Thủy tổ dòng
họ không phải theo kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ” mà là tôn trọng lời
truyền của tổ tiên và đối chiếu với lịch sử thấy hợp lý nên cho là xác tín. Có
thể do một nguyên nhân nào đó mà Gia phả quê gốc bỏ sót[22] hay lược đi hoặc ở đâu đó có chép mà bị thất lạc, chưa phát lộ hay chưa
được khai thác!. Cần công nhận điều lưu truyền và chép trong Gia phả của ngành
nhánh nơi đến, đặc biệt những cuốn Phả cũ.
- Lương
Đức Mến, 09/01/2018-
[1] Có tài liệu viết (1475) 1477-1526, tức cụ
mất năm Bính Tuất, 1526 đời Lê Cung Hoàng vào dịp Trần Cảo đã kéo quân uy hiếp
kinh thành.
[2] Ông là một nho sĩ có học vấn uyên bác, đỗ
Giải nguyên năm 1460, làm quan đến chức Hàn lâm viện Học sĩ kiêm Thái thường Tự
thừa, được vua cử đi sứ nhà Minh. Khi hưu trí, ông là một nhà giáo ưu tú, đã có
công đào tạo cho nước nhà nhiều nhân tài lỗi lạc và là người mở đầu giai đoạn
phát triển rực rỡ về văn hóa của quê hương Hội Triều. Hơn nữa việc cụ sinh con (LĐB) ở tuổi hơn 70 (1472(1475,
1477?)-1401) cũng là một sự xưa nay hiếm!
[3] Bài thơ “Nho Tăng đồng chu” theo Phan Kế
Bính viết trong sách Nam Hải Dị Nhân là của danh thần Lương Hữu Khánh, con
Lương Đắc Bằng.
[4] “Đề điệu” 提調: viên quan
đứng đầu chịu trách nhiệm toàn bộ công việc của trường thi. Giúp việc có: “Tuần
xước” 巡綽: tuần tra canh gác trong ngoài trường thi; “Thu
quyển” 收卷: thu các quyển thi của thí sinh; “Di phong” 彌封: quan rọc phách, niêm phong các quyển thi; “Đằng lục” 謄錄: người sao chép bài thi của thí sinh (ngày trước không chấm bài trên
các văn bản chính); “Đối độc”: người đọc soát bản sao so với bản chính.
[5] Ngày xưa gọi cái nhà để thi khảo là
"vi", vì thế nên thi Hương gọi là "Thu vi" 秋闈, thi Hội gọi là “Xuân vi Hội thí" 春闈會試. Kỳ thi cuối diễn ra tại sân Rồng gọi là “Đình
thí” 廷試 .
[6] Nghĩa đen là cái màn của năm thân vương.
Theo tích Đường Huyền Tông yêu quý anh em, khi mới lên ngôi, cho làm cái màn
rộng, gối dài, chăn to để vua và năm anh em thân vương cùng nằm.
[7] Đỗ Lý Khiêm ( ? - ? ) người xã Dong Lãng,
phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ ( Nay là huyện Vũ Thư , Thái Bình ). Làm
quan đến Phó đô Ngự sử. Đi sứ nhà Minh bị mất ở dọc đường.
大比三年薦禮圍/ 執經多士會京師/ 九重天子求賢日/ 十載書生獻策時/ 金榜已先題拱壽/ 慶雲隨見唱韓琦/ 致身既得文章用/ 堯舜君民我所期
Phiên âm:
Tứ Ất Mùi khoa Đệ nhất giáp Tiến sĩ Đỗ Lý, Lương Đắc Bằng đẳng:
"Đại
tỉ tam niên tiến lễ vi, Chấp kinh đa sĩ hội kinh sư. Cửu trùng thiên tử cầu
hiền nhật, Thập tải thư sinh hiến sách thì. Kim bảng dĩ tiên đề củng thọ, Khánh
vân tùy kiến xướng Hàn Kỳ. Chí thân ký đắc văn chương dụng, Nghiêu Thuấn quân
dân ngã sở kỳ".
Dịch ngĩa:
Ban cho Đệ nhất giáp Tiến sĩ khoa thi năm Ất Mùi là Đỗ Lý, Lương Đắc Bằng:
Ba năm thi
cử nay làm lễ tiến dâng, Rất nhiều kẻ sĩ học kinh sách, giờ đến hội ở kinh sư.
Trên ngôi cửu trùng, thiên tử cầu hiền tài, Thư sinh mười năm đèn sách nay đến
lúc hiến dâng kế sách cho nước. Bảng vàng đề tên trước chúc thọ mãi mãi, Mây
lành cùng được xướng danh thơm Tể tướng Hàn Kỳ. Trọn thân mình dùng vào sự
nghiệp văn chương, Vua và dân thời Nghiêu Thuấn chính là thời kỳ này của ta.
[9] Đêm Trung thu ngắm trăng tại đình Quan
Giá. Đình Quan Giá là nơi vua
ra xem việc trồng cấy của dân.
[10] Sử thần Ngô Sĩ Liên: “Bấy giờ trong buổi
hoan lạc, quyền bính không ở trong tay, bên trong thì nghe lời siểm nịnh, gian
trá, bên ngoài thì ham mê săn bắn, chim muông, ngu tối bất minh, ương ngạnh tự
phụ, bị nguy vong là đáng lắm”
[11] Nội dung có đoạn : "Bạo chúa
Lê Tuấn, phận con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, lần lữa mới gần 5 năm mà
tội ác đã đủ muôn khoé. Giết hại người cốt nhục, dìm hãm các thần liêu. Bọn
ngoại thích được tin dùng mà phường đuôi chó ngang ngược làm bậy, người cứng
cỏi bị ruồng bỏ mà kẻ đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng
tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế khoá
từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính. Đãi bề
tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác ngạo mạn quá cả Nguỵ Oanh. Huống chi
lại xây cung thất to, làm vườn hoa rộng. Xua dân đi trồng cây, giẫm theo vết xe
đổ chất gò Hoa Cương đời Tống; lấp biển xây cung điện, nối gót thói u mê xây
cung A Phòng nhà Tần. Công trình thổ mộc xây lên rồi thay đổi, thay đổi rồi xây
lên, dân Hải Dương, Kinh Bắc mệt mỏi, lao đao; tông thất xa hoa, kiêu căng lại
ngang ngược, ngang ngược lại kiêu căng, cõi tứ tuyên phiên trấn xôn xao, rối
loạn. Cư dân nhức óc, cả nước đau lòng".
[12] Mở đầu Trị bình thập tứ sách, Lương Đắc
Bằng chỉ rõ “Thánh quân ngày xưa không cho thiên hạ thịnh trị mà quên lòng
răn ngừa; hiền thần ngày xưa không thấy vui thành công mà quên lòng can gián.
Vì thế thời Ngu Thuấn đã thịnh trị mà Bá Ích vẫn can vua: “Chớ ham nhàn rỗi,
chớ đắm vui chơi, không trễ không lười, để công việc quốc gia bê trễ”. Đế Thuấn
nghe lời mà ngăn ngừa những việc đáng răn, do đó đã trở thành bậc thánh lớn.
Đời Văn Hán Đế (179-163 tCn) dân đã giàu có đông đúc rồi mà Giả Nghị vẫn dâng
kế sách nói rằng đất nước đang ở trong tình trạng “để lửa gần củi” Văn Đế nghe
lời can này mà lo nghĩ việc đáng lo, do đó nên bậc vua hiền”.
Lương Đắc
Bằng chỉ rõ tình hình đất nước từ khi vua lên ngôi: “Khí hòa thuận chưa điều
tiết, việc binh đao chưa dẹp yên, triều cương chưa cất nhấc, quân chính chưa
sửa sang, tai dị thường xuất hiện, đạo trời chưa được thuận, đạo đất chưa được
yên, kẻ gian phi lén phát, bọn nghịch tặc manh lòng, lòng người chưa yên ổn...”.
Từ thực tế
đó, Lương Đắc Bằng đã dâng lên vua 14 kế sách như sau:
“1. Hết lòng
răn sợ để dập tắt biến cố tai dị.
2. Dốc
lòng làm điều hiếu thảo để khuyến khích lòng trung hậu.
3. Xa bỏ
con hát, sắc đẹp để giữ vững căn bản lòng người.
4. Trừ
bỏ gian nịnh để nguồn gốc phong hóa được trong sạch.
5. Dè
sẻn trong việc ban đặt quan chức để cẩn thận việc khuyên răn.
6. Công
bằng trong việc bổ dụng để trong sạch đường làm quan.
7. Tiết
độ trong việc dùng tiền tài để khuyến khích thói kiệm phác.
8. Khen
thưởng người tiết nghĩa để trọng đạo cương thường.
9. Cấm
ăn của đút để trừ bỏ thói tham ô.
10. Sửa
võ bị để nước mạnh thế chống giữ.
11. Lựa
chọn người can ngăn ở Ngự sử đài để cổ vũ chí khí người mạnh dạn dám nói lời
ngay thẳng.
12. Giảm
nhẹ việc lực dịch để nuôi dưỡng sức dân.
13. Ban
hành pháp luật đúng đắn để thống nhất tâm chí bốn phương.
14. Cẩn
thận pháp độ để mở đời thịnh trị thái bình”.
Ông còn
viết: Các chước trên đây dâng lên mong bệ hạ soi xét. Thần lại nghe
cổ ngữ có câu: “Lời nói của người cắt cỏ kiếm củi, thánh nhân cũng
có thể chọn lấy”. Kinh thư có câu: “Biết không khó, làm mới khó”. Vậy
xin bệ hạ chớ cho lời thần là viển vông, nên lựa chọn mà làm, răn điều
nên răn, lo điều nên lo thì đạo trời được thuận, đạo đất được yên,
đạo người được hoa, mới đến thái bình được”.
[13] Tuy kế sách trên không thể thực hiện được
do hạn chế của thời cuộc, song lịch sử vẫn ghi nhận Lương Đắc Bằng là một nhà
cải cách xuất sắc hồi thế kỷ XVI. Những đề xuất của Lương Đắc Bằng mà ngày nay
suy ngẫm ta vẫn thấy nhiều điều còn mang tính thời sự nóng hổi.
[14] Có lẽ Tộc phả viết chữ Nhân 絪 thành chữ Cương 綱. Đỗ Nhân (杜絪, 1474-1518) người làng Lại Ốc, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, đỗ
tiến sĩ khi 20 tuổi, từng là Đông các học sĩ
東閣學士. Năm Canh Ngọ 庚午 (Hồng Thuận
năm thứ 2 順二 年, 1510) đổi tên là Đỗ Nhạc 岳, để tránh tên hiệu của vua là Nhân Hải 仁海, gia phong
Hộ bộ tả thị lang 户部左侍郎. Sau khi phụng mệnh
vua Lê Thánh Tông đi sứ nhà Minh, được phong làm Thượng thư bộ Hộ, kiêm Đô ngự
sử, Đại học sĩ đông các, vào giảng bài trong điện Kinh diên 東各大學 士入侍經筵.
Tháng 9 năm
1518, nhân chuyện thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng mang quân nổi
dậy đánh vào kinh thành báo thù cho chủ, quyền thần Mạc Đăng Dung bức Chiêu
Tông rời điện Thuần Mỹ. Đỗ Nhân cùng Phó đô ngự sử Nguyễn Dự can. Mạc Đăng Dung
liền sai đồ đảng là Đinh Mộng bắt hai người đến ruộng dâu ngoài cửa bắc hành
dinh Xuân Đỗ rồi giết. Vậy Lương Đắc Bằng phải mất trước tháng 9/1518, mà như
vậy thì thế tổ Lương Hữu Khánh phải ra đời vào cuối năm 1517 hoặc đầu năm 1518.
[15] Nhiều tài liệu nói Cụ mất tại quê chứ
không phải ở kinh thành.
Ông Hoàng
Đình Khảm đã có nhận xét: Không có tài
liệu nào nói đến năm mất của cụ Lương đắc Bằng, chỉ suy luận từ phả viết rằng
cụ có công phù lập vua Lê Chiêu Tông vào năm 1516. Phả còn cho biết khi cụ Bằng
mất, thì đô ngự sử Đỗ Cương vô cùng tiếc thương đã vỗ bàn mà khóc, thời này
không có ai làm đô ngự sử tên là Đỗ Cương mà ngài Đô ngự sử Đỗ Nhân bị Mạc đăng
Dung giết năm 1517. Suy ra cụ Lương đắc Bằng mất trong năm 1516.
“Lịch triều
hiến chương loại chí” chép cụ đỗ Bảng nhãn khoa thi Quý Mùi (1499) lúc
28 tuổi, tức cụ sinh năm 1472 và đoạn
cuối chép “Hơn 50 tuổi thì mất”.
GSTS Lương
Ngọc Toản cho rằng Cụ mất năm 1522.
[16] Nếu là 1516 (Bính Tý) thì sau đó 7 năm
mới có năm Quý Dậu còn năm 1526 (Bính Tuất) thì sau 7 năm chỉ có năm Quý
Tị (1533) và sau 12 năm là Đinh Dậu (1537). Chuyện này chưa rõ
thế nào.
[17] Nguyên văn: Tý Sơn Ngọ Hướng. Đây là
thuật ngữ trong việc định hướng nhà, hướng mộ. Theo Tam nguyên Long thì có 24
sơn và 8 hướng, bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên
long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), có 4 sơn dương và 4 sơn âm. Trong
đó Tý-Ngọ-Mão-Dậu là 4 sơn âm của Thiên nguyên Long; Nhâm-Tý-Quý thuộc Bắc còn
Bính-Ngọ- Đinh thuộc Nam.
[18]
Như Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Bảng nhãn Nguyễn Mẫu Đối, Hoàng giáp Lại
Kim Bảng, tiến sĩ Đinh Bạt Tụy… và đặc biệt là Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm.
[19] Năm 1994, khu lăng mộ và nhà thờ Lương
Đắc Bằng đã được Nhà nước cấp bằng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
[20] Chế độ thi cử Nho học với
các kỳ thi là Thi Hương, Thi
Hội, Thi Đình và người đỗ
được liệt kê tên họ vào cái bảng danh dự nên được gọi là Khoa bảng 科牓.
[21] Không rõ bác Lương Đức Công và bố tôi
nghe ai và các cụ căn cứ nguồn tư liệu
nào mà kể lại với tôi như vậy. Nay các cụ đã về hầu Tiên tổ cả, số còn sống chả
ai biết ất giáp gì!
[22] Ngay như việc 7 gia đình họ Lương gốc
Phương Lạp (nay là Phương Hạ), xã Chiến Thắng, huyện An Lão lên khai
hoang ở Lào Cai những năm 1962-1970 mà trong Sổ họ Đại tôn ở quê lập năm 1980
có ghi đâu, Gia phả các Chi càng không chép. Mãi tới ngày 01/8/1999 (20 tháng 6 Kỉ Mão) khi
vợ chồng tôi về quê thông qua bản thảo cuốn: Lược thuật về Lương tộc và gia
đình tôi mới bổ sung, nhưng còn thiếu chi chõ nhà anh Thuế bên Trì Quang. Vài
đời sau cứ căn cứ vào tư liệu tại quê gốc thì lần đâu ra?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!