Tranh minh họa từ http://m.phatgiao.org.vn/nghien-cuu/201604/Khong-nen-ho-niem-qua-lau-cho-nguoi-mat-21746/ |
Đây không phải là việc mới, nhưng ít phổ cập
và gần đây phục hồi nhiều ở những gia đình Phật tử (H: 佛子, A: Buddhist,
P: Bouddhiste). Song ít người nắm rõ,
có người còn e ngại, nhiều người hiểu sai,
làm sai nên tìm hiểu giáo lý nhà Phật và qua vài đám thực tế ghi lại đây.
1. Phật giáo và Tâm linh Việt:
Lịch sử từng có giai đoạn “vô
thần” (H: 無神, A: The atheism, P: L'athéisme) hay có người chủ trương “vô
thần” có thái độ hoài nghi với tất cả những gì siêu nhiên; cho rằng không có Thần,
Thánh, Tiên, Phật, không có Thượng Đế, không tin có thế giới siêu hình, không
tin con người có linh hồn bất diệt. Nhưng, thực tế, các danh nhân, hào kiệt lừng
lẫy một thời rồi cũng chết (được tôn xưng
là băng hà, viên tịch, hy sinh, tạ thế, qua đời…) và trong dân gian số người
còn nhớ đến họ là có giới hạn. Nhưng Ông Trời (Thượng Đế, Ngọc Hoàng, Thiên Chúa) vẫn “sống” trong khắp cõi nhân
gian và bất kỳ lúc nào cả khi vui, khi buồn, cả lúc bất mãn, khi thỏa lòng hay
cần kêu cứu người ta vẫn nhắc tới Ông. Hay như có thời một vài cán bộ quá tả từng
tuyên bố “vô thần”, có những việc làm không hay với tín ngưỡng nhưng thực ra
trong lòng họ vẫn nghĩ tới Tổ tiên, tới Trời và họ vẫn ngưỡng vọng Thần linh!
Vì vậy, những người cố tình nói quá lên là không đúng!
Các Đấng Thiêng liêng đó đều là những Đấng siêu hình (H: 超形, A: Metaphysical, P: Métaphysique), không có hình tượng cho
nên có người tin, có người không tin. “Linh tại ngã, bất linh tại ngã” 靈在我不靈在我 mà! Nhưng sống trong trời đất cần có đức tin. Chúa Jesus đã từng
nói; “Đức tin con cứu con”; Khổng Tử (孔夫子, 551–479 tCn) chép trong Kinh Thư 書經: 太甲曰天作孽猶可違自作孽不可活: Thiên tác nghiệt, do khả
vi; tự tác nghiệt, bất khả hoạt. Tức là: Những tai ách do Trời làm ra, mình còn
tránh được. Những tai ách tự mình gây nên, thì mình phải chết. Cho nên muốn sống
thanh thản, mọi việc hanh thông thì phải “biết mình là ai”, cần có Đức tin (H: 德信, A: The belief, P: La foi) và trong lòng mình có Trời, có Đạo,
có Nhân.
Các Tôn giáo (H: 宗敎, A: The religion,
P: La religion) phổ biến có sớm ở Việt Nam là: Phật
giáo (H : 佛敎 , A: Buddhism,
P: Bouddhisme), Nho
giáo (H: 儒敎, A: Confucianism, P: Confucianisme) và Lão giáo (H: 老敎, A: Taoism, P:
Taoisme). Ba tôn giáo này đến nước ta qua những thời kỳ khác nhau và có ảnh hưởng khác nhau đến
việc hình thành, phát triển văn hóa Việt, tâm hồn
người Việt thay nhau giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống Tâm linh (H: 心靈, A: The soul, P: L' âme) người Việt[1]. Đồng
thời từ thế kỷ X trong xã hội xuất hiện hiện tượng Tam giáo đồng nguyên[2]
(H: 三敎同原, A: Three religions was originated from the same source, P: Trois religions sont provenues de même
source)
Đối với người đã mất, Nho giáo chủ trương trọng như người sống[3] ảnh hưởng tới hành vi; Phật giáo coi
trọng Tứ ân (H: 四恩, A: The
four favours, P: Les quatre faveurs),
trong đó có “Phụ mẫu ân” 父母恩 nhằm trợ duyên cho ông bà, cha mẹ tu tập
theo Phật cho vong linh được siêu thoát, tái sinh ảnh hưởng tới việc tu thân
còn Lão giáo thì ảnh hưởng tới lối sống người Việt lại mong người chết
mau về với cõi Tiên, cõi Trời.
Chính giáo lý của các tôn giáo trên đã được
những trí thức, giáo sĩ của tôn giáo đó dùng giáo lý tôn giáo mình để lý giải
niềm tin, tín ngưỡng, tập tục dân gian Việt cổ. Theo thời gian, người Việt chịu ảnh hưởng Phật Giáo về mặt tâm linh, chịu
ảnh hưởng Nho Giáo về mặt luân lý giao
tiếp xã hội, chịu ảnh hưởng Lão Giáo về mặt lối sống và duy trì tín ngưỡng dân
gian về mặt mê tín dị đoan.
Tuy có những giai đoạn thăng trầm khác nhau nhưng Phật giáo và Lão giáo luôn đồng hành cùng dân tộc và trên nền tảng tư tưởng của Phật
giáo, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bản địa, nhiều nghi lễ là
sự kết hợp giữa Phật giáo nguyên thủy và truyền thống dân tộc. Do vậy các nghi
thức việc Hiếu cũng ảnh hưởng của Phật giáo.
A: Buddhism, P: BouddhismeThích-ca Mâu-ni (zh. 釋迦牟尼, sa. śākyamuni, pi. sakkamuni, dịch nghĩa là “Trí giả trầm lặng
(muni) của dòng Thích-ca”[4][5]
2. Phật giáo với “đường đi” của
con người sau chết:
Phật giáo cho rằng: chúng
sinh tùy theo căn quả thiện hay ác mà sau khi chết chuyển vào trong LỤC ĐẠO
LUÂN HỒI (H: 六道輪迴, A: Six ways of Karma, P: Six voies de Karma) là sáu đường luân
chuyển trong sáu cảnh. Thực ra gặp vui sướng thì ít, gặp đau khổ thì nhiều, vì
họ còn vô minh, chưa tỉnh ngộ, nên mới gọi sáu hạng ấy là Lục phàm. Đó là:
- Ba đường trên thì vui sướng dễ chịu, nên gọi là Tam thiện đạo 三善道, có thể thọ nhận giới pháp tu
hành thiện đạo thủ hưởng Bồ Đề. Gồm:
+ Thiên đạo: Là cõi Trời, tức là các tầng trời trong Tam giới với
người do tạo 10 nghiệp lành bậc thượng;
+ Nhân đạo: Là cõi Người, tức làm loài người ở cõi Ta Bà này, do
tạo 10 nghiệp lành bậc trung mà chiêu cảm quả báo sinh làm người.
+ A Tu La đạo: Là cõi Thần, tức sinh làm thần A Tu La, do tạo 10
nghiệp lành bậc hạ mà cảm quả báo sinh làm thần A Tu La.
- Ba đường dưới thì khốn khổ, nguy nan, nên gọi là Tam ác đạo (H :
三惡道, A: Three evil ways, P: Trois
mauvaises voies) tức do chúng sinh tạo nhiều ác nghiệp nên lúc mạng chung bị
đọa trong ba đường dữ chịu nhiều thống khổ đớn đau. Gồm :
+ Địa ngục (H: 地獄, A: The Hades, Hell, P: L'Enfer): là nơi giam giữ và trừng phạt các linh hồn tội lỗi. Tương
truyền nhà ngục nầy ở dưới đất, là cảnh giới hoàn toàn thống khổ không bao giờ
có chút an vui, đáng ghê gớm sợ sệt đủ thứ cực hình, nơi tra tấn khốc liệt, tội
nhân ở đó bị lửa đốt bị quăng vào vạc dầu sôi, bị cưa, bị kéo đau đớn vô cùng,
chừng nào nghiệp báo hết thì mới thoát khỏi chốn này với những kẻ làm người mà
gây ra 10 nghiệp cực ác. Vì ở dưới đất nên gọi là Địa ngục, gồm ba loại: Căn bản
địa ngục: Bát hàn, Bát đại địa ngục; Cận biên Địa ngục: 16 du tăng địa ngục... ;
Cô độc Địa ngục : Địa ngục ở trong núi, trong đồng nội, ở dưới cội cây... chúng
sanh do tạo tội Thượng phẩm thập ác mà đọa địa ngục.
+ Ngạ quỉ: Là cảnh giới của loài quỉ đói khát, muốn ăn mà không
được ăn, muốn uống mà không uống được, luôn bị sự đói khát bức bách lại bị đánh
đập liên miên với những kẻ gây nên 10 nghiệp ác thường, tham lam bỏn xẻn, keo
kiệt mà cảm lấy quả báo làm ngạ quỉ và
có hình thù rất xấu xí.
+ Súc sinh: Là chốn đầu thai làm súc sanh như ngựa, lừa, heo,
chó,... Súc sanh bị người ta đày đọa làm việc khổ cực như trâu, bò, lừa,... lại
còn bị chém giết, ăn thịt và chính chúng nó giết hại lẫn nhau để ăn nuốt, nên rất
là đau đớn khốn khổ với những kẻ ki làm người gây nên 10 nghiệp ác vừa.
Giáo lý nhà Phật cũng cho rằng cuối nẻo đường trần có 3 lối rẽ để đi:
- Tiến thẳng lên Thánh đạo, vãng sinh Cực Lạc
tức thời, lối đi này chỉ dành cho những người cực thiện;
- Đi vào Thiện đạo dù có được tốt đẹp ít khổ,
nhưng vẫn còn quanh quẩn luân chuyển vào nhân đạo hoặc thiên đạo;
- Đi vào Ác đạo là con đường trầm luân,
không ai muốn bước vào. Nhưng nghiệp ác hiện đời đã gây tạo, phải biết đường
tránh.
3. Để
được siêu thoát:
Do vậy, với người phải vào lối 2, 3 thì việc
hộ niệm 護念 (được giúp Niệm Phật) trong giờ phút sắp lâm chung càng vô
cùng quan yếu. Nhưng muốn có hiệu quả cần có sự chuẩn bị trước (từ lúc còn khỏe cho đến lúc bệnh) còn
lúc chết rồi mới lo thì thuộc về phạm vi Cầu siêu.
HỘ NIỆM 護念là nói
tắt từ “Bảo hộ ức niệm”, khiến
cái ác bên ngoài không xâm phạm, điều thiện ở bên trong được nẩy nở, là trợ
duyên cho người còn sống (người bệnh) được thực hiện khi rõ là thấy thuốc chữa trị không còn tác dụng
đối với người ấy nữa, khi mà người bệnh sắp qua đời. Sự nhất tâm của người trợ
niệm cùng với công năng của sự niệm Phật 念經sẽ gia hộ cho người bệnh sớm chấm dứt đoạn hành trình cuối cùng
trong cuộc đời mình. Nhờ vậy, người bệnh sẽ được tự do, thanh thản và được vãng
sanh về cảnh giới của chư Phật. Việc hộ niệm với đầy đủ TÍN – NGUYỆN – HẠNH, có tác dụng:
- Đối với
người chưa tin Phật Pháp, thì đem giáo lý mà giảng cho họ phát khởi lòng tin,
nhớ tới sự lành;
- Đối với
người mới phát tâm, thì tùy tiện giáo hóa cho họ tinh tấn tu hành;
- Đối với
người tu lâu thì trợ giúp cho họ bước lên đường bất thối;
- Đối với
người bệnh trọng thì cầu nguyện cho họ tránh khỏi sự đau đớn, tai ách;
- Đối với
người lâm chung, thì cầu nguyện cho linh hồn họ minh mẫn, biết
niệm nhớ Phật, Pháp khỏi sa đọa vào các đường tạo
nghiệp ác.
Đặc biệt, người sắp chết có được chính niệm, nói cách khác là mình
giúp cho họ nhớ, đồng tâm niệm Phật, không màng đến duyên trần gây trở ngại cho
việc vãng sanh. Khi niệm cần chú ý VÃNG SINH THẦN
CHÚ 往生神咒[6] . Đó là câu niệm bằng tiếng Phạn (H: 梵語, A: The sanskrit, P: Le sanscrit)[7]
để cầu nguyện với Đức Phật A Di Đà cứu độ linh hồn người chết phá trừ tất cả
nghiệp chướng căn bản, được Vãng sinh Cực Lạc và đặc biệt hú trọng tới Lục tự
Di Đà (H: 六字彌陀, A: Six words of Amitabha, P: Six mots d'Amitabha): là sáu chữ: NAM MÔ
A DI ĐÀ PHẬT (có nghĩa là: đầu cúi lạy Đức
Phật A Di Đà, hay đầu cúi lạy Vô Lượng Quang Phật).
Vãng sinh Thần chú là câu niệm bằng tiếng Phạn (H: 梵語, A: The sanskrit, P: Le sanscrit)[8]
để cầu nguyện với Đức Phật A Di Đà cứu độ linh hồn người chết phá trừ tất cả
nghiệp chướng căn bản, được Vãng sinh Cực Lạc.
Nó gồm 59 chữ mà xưa nay thường trì niệm theo phiên âm Hán Việt[9].
Chúng ta có thể trì niệm theo nguyên văn tiếng Phạn (đã phiên âm) và tìm hiểu đôi chút về “ý nghĩa” của thần chú này,
theo Đoàn Trung Còn có nghĩa như sau:
- Namo Amitàbhàya (Na-mô
A-mi-ta-pha-gia) đọc là Nam mô A di đa bà dạ, nghĩa là: qui kính Đức A Di
Đà Phật;
- Tathàgatàya (Ta-tha-ga-ta-gia)
đọc: Đa tha già đa dạ nghĩa là Như Lai (H: 如來, A: Buddha, P: Bouddha) có nghĩa là nương theo cái thật của
Chân tức là đã đứng vào phẩm vị Phật, là một trong 10 hiệu của Phật, là “Không
từ ở đâu đến, mà cũng không đi đâu”, là tính thường trụ, thường hằng của vạn
pháp;
- Tadyathà (Ta-di-gia-tha)
niệm là Đa điệt dạ tha nghĩa là: Như Lai Đa diệt dạ tha, tức liền đọc bài chú
dưới đây;
- Amrto dbhave (A-mờ-rật-tô
đờ-pha-vê) niệm là A di rị đô bà tỳ nghĩa Cam lộ hiện lên;
- Amrta sambhave (A-mờ-rật-ta
sam-pha-vê) niệm thành A di rị đa tất đam bà tỳ nghĩa Cam lộ phát sinh;
- Amrta vikrànte (A-mờ-rật-ta
vi-kờ-răm-tê) niệm A di rị đa tỳ ca lan đế nghĩa Cam lộ dũng mãnh
- Amrta vikrànta gamini (A-mờ-rật-ta
vi-kờ-răm-ta ga-mi-ni) niệm là A di rị đa tỳ ca lan đa già di nị nghĩa là Đạt
đến Cam lộ dũng mãnh
- Gagana kìrtti kare (Ga-ga-na
kít-ti ka-rê) niệm là Già già na, chỉ đa ca lệ tức Rải đầy hư không
- Svàhà (Sờ-va-ha) đọc
Ta bà ha 娑婆訶: tiếng
Phạn là Swâha là ba chữ chót của bài Thần chú, có nghĩa là: Thành tựu, kiết tường,
tiêu tai tăng phước, viên tịch, vô trụ, kính Phật chứng minh.
Như thế 10 câu trên đều là mật ngữ, đại ý có nghĩa là: nhổ bỏ tận
gốc các nghiệp chướng.
4. Hộ
niệm theo Nghi thức:
Phật tử tin rằng: Phật, Bồ tát, chư
thiên và các vị thiện thần thường nhớ nghĩ và che chở những người tin kính Tam
bảo, khiến cho họ không bị các chướng nạn làm hại. Sự nhớ nghĩ che chở của các
Ngài như bóng theo hình, không cách rời, làm cho ác quỉ không thể đến gần làm hại,
vì thế gọi là Ảnh hộ hộ niệm. Lại nữa, để chứng minh cho giáo pháp do đức Phật
nói ra là chân thực, chư Phật và Bồ tát bèn lập thệ nguyện, nếu chúng sinh tin
nhận và làm theo giáo pháp này, thì sẽ được lợi ích vô cùng, đó gọi là Chứng
thành hộ niệm.
Chúng ta phải luôn nhớ rằng người sắp chết tâm
thần bị tán loạn, dễ bị tán tâm khó bề tâm niệm Phật. Bởi thế, nên họ rất cần
người khác hộ niệm để giúp họ tập trung tinh thần về với chính niệm bằng cách
chí thành tha thiết niệm Phật. Khi người bệnh vừa tắt thở, thì thần thức chưa
hoàn toàn rời khỏi thể xác nên còn rất cần thiết cho việc hộ niệm, niệm Phật.
Muốn vậy, thân quyến hay con cháu trong gia đình là những nhân tố chính giúp
cho người thân của mình khỏi bị đọa lạc vào cảnh khổ nhưng lại bối rối lo buồn thêm bao việc phải lo nên không còn đủ
bình tĩnh. Nên phải có người biết cách trợ niệm, để giúp
đỡ chỉ bảo mọi việc cho thân nhân và bạn bè lo trợ niệm giúp đỡ cho bệnh nhân.
Muốn cho việc hộ niệm vãng sanh[10]
đạt được kết quả cao, cần phải hội đủ những điều kiện cần thiết để thực hiện
qua 4 yếu tố quan trọng như sau :
4.1.
Người Hộ niệm:
1). Giúp cho gia đình hiểu rõ Hộ niệm khác
Cầu an hay Cầu siêu; nên khuyên bảo thân quyến và sắp xếp mọi việc cần thiết
trong lúc hộ niệm cho người bệnh hấp hối sắp lâm chung. Chữ nhà Phật là khai thị 開諟 (cho gia đình, người bệnh, cho oan gia trái chủ) nói rõ mục đích, ý
nghĩa, nghi thức việc tụng kinh, niệm Phật. Nhấn mạnh: nếu thọ mạng chưa dứt sẽ
mau lành bệnh; nếu thọ mạng không còn sẽ Vãng sanh Cực lạc[11].
Tối kỵ nhất là gây xáo trộn khóc than trong giờ phút này. Những
ai không dằn lòng được xúc động, thì tốt hơn hết là nên mời họ bước ra ngoài.
2). Thái độ và cung cách, nhất là lời nói đối
với người bệnh phải hiền hòa dịu ngọt, nên khuyến nhắc người bệnh nhớ niệm Phật
và cần gợi lại những công hạnh mà người bệnh đã thực hiện.
3). Đặt bàn thờ Phật sao cho người được hộ
niệm thấy được. Trên đó có bày Tranh hay Tượng Đức Phật A Di Đà lớn, lư hương,
bình hoa, đĩa quả, ly nước và 2 cây đèn (gia
đình mua).
Cho xem hình A DI ĐÀ PHẬT. Ngoài việc niệm Phật và khuyến nhắc
bệnh nhân ra, tuyệt đối không được nói lời gì khác, mà gây cho bệnh nhân không
vui dễ mất tín tâm và tán loạn.
4). Tùy trường hợp, hoàn cảnh nơi bệnh nhân
nằm, mà linh động niệm Phật to tiếng hoặc nhỏ tiếng, tốt hơn hết là chỉ niệm Phật
cho bệnh nhân vừa đủ nghe, không nhỏ quá và cũng không nên lớn tiếng quá bởi
càng niệm lớn tiếng, bệnh nhân càng không nghe rõ. Tốt hơn hết, là nên niệm vừa
đủ cho bệnh nhơn nghe thôi. Và khi niệm, phải niệm chậm, rõ ràng đủ 6 chữ :
“Nam Mô A Di Đà Phật”.
5). Phải thay phiên nhau niệm Phật liên tục
không cho gián đoạn, cần khuyến khích thân nhân cùng thay phiên nhau niệm Phật.
Trong phòng bệnh, ngoài tiếng niệm Phật ra, tuyệt đối phải giữ yên lặng, không
được nói chuyện ồn ào làm loạn tâm bệnh nhân vô ích.
6). Khi người bệnh đã thật sự tắt thở, cứ để
như vậy mà chí thành niệm Phật liên tục, không nên sửa làm động đậy bệnh nhân,
ít nhất là 2 tiếng đồng hồ.
7). Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương,
cùng bàn việc hay dở trong nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên vì mình niệm
Phật, đừng hỏi thăm chi khác…
4.2. Người được Hộ niệm:
Nếu đã phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh,
thì trong lúc bệnh nặng, nên buông bỏ tất cả duyên trần, không bận tâm với bất
cứ vấn đề gì, nhất là đối với việc gia đình nhà cửa con cháu … Cần dốc hết tâm
lực còn chút hơi tàn mà quyết lòng niệm Phật cầu sinh Tây phương, theo bản nguyện
sinh tiền của mình đã phát nguyện, không sợ chết. Tốt nhất là niệm: “thân này
nhơ nhớp, biết bao khổ lụy hãm vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi nhơ, sanh về Cực
lạc thọ thân kim cương thanh tịnh sẽ thoát khỏi luân hồi khổ thú, hưởng vô sự
an vui. Ví như đổi cái áo cũ rách lấy đồ trân phục, còn điều chi thích ý bằng”.
4.3. Gia đình người được Hộ niệm:
1). Chuẩn bị:
- Mời Ban Hộ niệm; nhất mực tin tưởng và
làm theo hướng dẫn của Ban này; không mời nhóm khác cầu siêu, đọc kinh...
- Một phòng gọn gàng, thoáng mát, trang
nghiêm; không tự ý trưng bày tranh ảnh hoặc hình tượng gì khác ngoài ảnh A DI
ĐÀ PHẬT.
- Một bát cơm trắng, một đĩa muối, một cây
đèn dầu lửa, tất cả để trên mâm nhỏ bên cạnh hoặc phía trước đầu của người lâm
chung.
- Ở dưới đất, cách giường người lâm chung
khoảng 50 cm, đốt một đĩa dầu lạc hay nến để hút những hơi độc (nếu có).
- Ghế cho đủ người Hộ niệm ngồi ngay hàng
thẳng lối, cao hơn người được hộ niệm.
- Chuẩn bị mâm chay; khi nấu tại nhà kiêng
phi tỏi, hành, hẹ, kiệu, hành Tây và tránh mùi thức ăn xông nên nơi Hộ niệm.
2). Nếu có nuôi chó, mèo,... cần nhốt chúng
lại, hoặc phải canh chừng không được để chúng đến gần làm cho người bệnh giật
mình, tức giận, khó thành.
3). Không được xen tạp những hình thức gì
khác như: tụng kinh, tụng chú, cầu an, cầu siêu, dùng bùa ngải,… kể từ lúc khởi
sự hộ niệm. Không được đi qua, đi lại phía trước những người đang ngồi hộ niệm
4). Khi người bệnh tắt thở không được đụng
chạm vào thân xác[12] như: thay quần áo, tắm rửa, chỉnh sửa
thân xác, di chuyển, vuốt mắt, chêm đẩy cằm để miệng khép lại; không để bất cứ
vật gì vào miệng-tay-túi áo quần, không đặt vật gì lên bụng, không than khóc,
không đi coi ngày giờ mà phải tập trung vào niệm Phật, lạy Phật cùng với ban hộ
niệm trợ niệm cho người thân của mình liên tục 8 giờ. Sau đó tùy ý gia đình coi
ngày giờ tẩm liệm, thay quần áo, chỉnh sửa thân xác,...
5). Phải tỏ thái độ có lòng thương kính từ
ái và tuyệt đối không được dùng lời nói mất hòa khí trong gia đình. Tuyệt đối,
không nên đem việc nhà ra bàn luận. Nếu để cho người bệnh biết được những sự việc
không hay xảy ra, thì sẽ gây tác hại lớn cho việc vãng sanh, vì người bệnh sẽ
phiền muộn, tham, sân, si nổi lên dễ sa vào ác đạo như tên bắn.
6). Phải làm và nghe theo sự thức nhắc, sắp
xếp của người có trách nhiệm hộ niệm cho thân nhân của mình. Những người nầy, họ
vì thân nhân của mình mà hết lòng hộ niệm, nên chúng ta cần tôn trọng những lời
chỉ bảo của họ.
7). Không nên kêu khóc lớn tiếng và kể lễ bất
cứ điều gì, chỉ một bề niệm Phật. Phải gắng dằn lòng xúc động trong giờ phút nầy.
Nên nhớ đây là yếu tố quan trọng mà người mới lâm chung có được vãng sanh hay
không, đều tùy thuộc vào thân quyến. Bởi đây là giai đoạn của thân trung ấm, giai đoạn chuyển tiếp
quan trọng nhất trong kiếp chúng sinh.
Đây là giai đoạn mà người lâm chung đang đứng trước ngã rẽ giữa quỷ, người,
phàm Thánh. Trong giai đoạn nầy điều quan trọng nhất nên làm là cùng nhau hộ niệm.
Dù cho người ấy đã có ý hướng sinh về cõi nào, có thể là cõi thiện; tuy
nhiên, sự than khóc của người thân làm khơi dậy niệm luyến ái trong người ấy,
do vậy người ấy có thể rơi trở về vòng sanh tử, uổng phí một đời tu
8). Tất cả nên vì người mất mà phải thành
tâm niệm Phật, tụng kinh cầu siêu suốt trong thời gian từ khi mất cho đến trải
qua 49 ngày.
9). Trong thời gian cư tang, nên tu tạo nhiều
phúc lành để hồi hướng cho người quá cố sớm được siêu sinh thoát hóa.
Riêng đối với thân hữu bạn
bè, chúng ta nếu thật thương người bạn mình thì chỉ nên hiệp lực cùng với
những người khác mà đồng tâm niệm Phật. Nếu không quen niệm, thì chúng ta cũng
không nên nói những chuyện gì khác.
4.4. Nghi
thức Hộ niệm:
Mỗi nhóm 3-6 người thay phiên nhau 2 tiếng một kíp.
1) Hộ niệm khi người bệnh còn sống:
- Trưởng Ban thắp 3 nén hương quỳ trước
bàn Phật đưa hương lên trán.
- Khấn bài giới thiệu.
- Xá 3 xá, cắm hương vào lư, đứng dậy lễ
Phật.
- Trưởng ban xướng, cả nhóm cùng Niệm[13] các bài[14]: Kệ[15] tán Phật,
Lễ Phật, Kệ niệm Phật, Nam mô A Di Đà Phật, Hồi hướng[16], Phục
nguyện, Tự quy y (có lạy)...
2)
Hộ niệm khi lâm chung:
- Khai thị cho người vừa mất.
- Trưởng Ban thắp 3 nén hương quỳ trước
bàn Phật đưa hương lên trán.
- Khấn bài Nguyện hương.
- Xá 3 xá, cắm hương vào lư, đứng dậy lễ
Phật.
- Trưởng ban xướng, cả nhóm cùng Niệm
các bài: Kệ tán Phật, Lễ Phật, Kệ niệm Phật, A Di Đà Phật (liên tục 8-12 tiếng), Hồi hướng, Phục nguyện, Tự quy y (có lạy)...
Xin phép Hương linh kiểm tra thoại tưởng:
Nếu thấy sắc diện hồng hào, cơ thể mềm mại, hơi ấm xuất ra trên đỉnh đầu là đã
được vãng sanh Cực lạc. Khi đó Ban Hộ niệm ra về, gia đình lo hậu sự. Còn nếu
chưa đạt Vãng sanh thì tiếp tục Trợ niệm.
5. Hộ
niệm dưới góc nhìn khoa học:
Theo nghiên cứu của y khoa, sau khi chết
thi xác bắt đầu lạnh, đông cứng, co quắp rồi khoảng từ 15 đến 20 giờ trở đi xác
chết dần mềm trở lại để bắt đầu quá trình phân hủy. Như vậy, việc thân thể từ
tím tái và co quắp sau một thời gian chuyển thành “mềm mại, tươi nhuận hơn” là
sự chuyển biến bình thường của mọi xác chết, những ai xem sự biến chuyển tự
nhiên đó là kết quả nhiệm mầu của quá trình hộ niệm là một nhầm lẫn nghiêm trọng,
cần nhanh chóng sửa sai và khắc phục.
Do đó, việc “Ban hộ niệm bắt buộc phải
niệm đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi” là điều hoàn toàn không
đúng và họ đã tự tin vào năng lực tiếp dẫn của mình một cách thái quá. Vì như
đã nói, vãng sanh hay không tùy thuộc vào nhiều nghiệp duyên của người chết, việc
hộ niệm thì rất cần, nhưng hộ niệm trong khoảng 8 đến 10 giờ sau khi mất là lý
tưởng nhất. Đây là khoảng thời gian cần thiết để thần thức lưu xuất ra khỏi xác
thân. Mặt khác, sau khoảng thời gian này thì tiến trình phân hủy sẽ bắt đầu. Nếu
không khâm liệm kịp thời sẽ ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường cũng như an toàn sức
khỏe cho thân nhân và cộng đồng, vi phạm quy định về nếp sống mới.
Đồng thời, Phật giáo có quan niệm rõ về
Nhân-Quả nên nếu quá trình sống không chịu tu nhân tích đức, luôn làm điều xấu
thì dù có mặc áo Lục thù, được Hộ niệm chu toàn đến đâu thì người vừa thọ mạng
cũng không thể Vãng sinh về chốn Cực Lạc được!
Người học Phật cần nêu cao tinh thần Chính
kiến, tin sâu Nhân quả-Nghiệp báo nên sống cần chân tu, lúc hấp hối, qua đời “Hãy
tự mình thắp đuốc lên mà đi” mới mong sớm siêu thoát. Gia đình, thân thuộc nên
biết điều đó để trự duyên, quyết không rơi vào tà kiến và chấp thủ sai lạc.
[1] Ví như nhà Lý (李朝,
1009 - 1225) nhờ thế lực của Phật giáo mà lên nhưng lại quá thiên về đạo Phật,
xây quá nhiều Chùa Tháp dẫn đến hao phí rồi mất Vương quyền về tay họ Trần (陳朝,1225 - 1400)
[2] Trong một phạm vị lịch sử nhất
định, Tam giáo có tạm thời thay thế nhau giữ vai trò hàng đầu, trở thành Quốc
giáo nhưng trong đời sống xã hội và sinh hoạt tâm linh, tình cảm, Tam giáo vẫn
là ba mà một (Trinity) ảnh hưởng nếp ăn ở tư duy của cộng đồng người Việt, hòa với tập
tục, bản sắc riêng của văn hóa bản địa VN. Cái vạc ba chân là cái thế
vững chắc đỡ nâng và dẫn dắt cuộc sống trong các mối quan hệ ràng buộc cá nhân - gia đình - xã hội - quốc
gia.
[3] Nguyên văn “kính kỳ sở tôn,
ái kỳ sở thân, sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí giã 敬其所尊, 愛其所親, 事死如事生, 事亡如事存, 孝之至也”. Tức là “Kính người trên, thương người thân, thờ người chết như người còn
sống, trọng người đã khuất như người hãy còn. Đó là trọn hiếu vậy!”
[4] là danh hiệu Tất-đạt-đa Cồ-đàm có được sau khi tỉnh
thức, giác ngộ được Pháp (zh. 法, sa. dharma, pi.
dhamma), nguyên lí của vạn vật
[5] Tam Tạng Kinh không do Đức Phật Thích Ca viết ra,
mà do 500 vị A-La-Hán, đệ tử của Đức Phật, kết tập giáo pháp của Phật dưới sự chủ
tọa của Nhứt Tổ Ma Ha Ca Diếp, lập thành ba bộ kinh quan trọng nhất của Phật
giáo, chép lại tất cả lời thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca trong suốt 45 năm
hoằng pháp của Ngài, tạo thành một nền giáo lý và triết lý rất cao siêu của Phật
giáo:
• Kinh Tạng ghi
chép lại những lời Phật thuyết .
• Kinh Luật ghi
chép những giới luật do Đức Phật chế định làm khuôn phép tu học và sinh hoạt
cho tăng chúng.
• Tạng Luận ghi
chép tất cả những bài do các Luận sư trình bày, giải thích giáo lý của Phật một
cách có hệ thống.
[6] Tương truyền do Phổ Hiền Đại Bồ tát đặt ra gọi là
Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ Đà la ni mà có thể dịch
thành là thần Chú, có nghĩa là ”tổng trì”.
Tức tuy chỉ có vài chữ, nhưng có thể bao gồm hết thảy ý nghĩa của Phật
Pháp, cho nên Thần Chú có công đức vô lượng..
[7] Phạn ngữ hay Phạm ngữ là tiếng Phạn, tức là ngôn
ngữ của xứ Phật, ngôn ngữ của nước Thiên Trúc (H: 天竺, A:
Ancient name of India, P: Ancien nom de l'Inde) ở miền bắc Ấn Độ
mà Đạo Bà La Môn và Đạo Phật dùng để
thuyết pháp và chép kinh sách. Nó phân ra làm hai loại: Bắc Phạn là tiếng
Sanscrit dùng trong Bắc Tông tức Phật
giáo Đại thừa còn Nam Phạn là tiếng Pali do Nam tông tức Phật giáo Tiểu Thừa
dùng.
[8] Phạn ngữ hay Phạm ngữ là tiếng Phạn, tức là ngôn
ngữ của xứ Phật, ngôn ngữ của nước Thiên Trúc (H: 天竺, A:
Ancient name of India, P: Ancien nom de l'Inde) ở miền bắc Ấn Độ
mà Đạo Bà La Môn và Đạo Phật dùng để
thuyết pháp và chép kinh sách. Nó phân ra làm hai loại: Bắc Phạn là tiếng
Sanscrit dùng trong Bắc Tông tức Phật
giáo Đại thừa còn Nam Phạn là tiếng Pali do Nam tông tức Phật giáo Tiểu Thừa
dùng.
[9] Đó là:
“Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di
rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị,
già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha”.
[10] VÃNG SINH: 往生 là chết ở cõi trần này để sanh
qua một thế giới khác. Tức bỏ thế giới ác này mà qua cõi thanh tịnh yên vui của
Đức Phật A Di Đà, đó là “vãng” và khi qua đó rồi thì sinh vào hoa sen, đó kêu
là sinh.
[11] CỰC LẠC còn gọi là Cực Lạc Niết bàn - Cực Lạc Thế
giới - Cực Lạc quốc (H : 極樂涅槃- 極樂世界- 極樂國, A: Nirvana - Paradise - Kingdom of happiness,
P: Nirvana - Paradis - Royaume de bonheur, S. Sukhavati)
hay Tây phương Cực lạc 西方極樂 là chỉ cõi hoàn toàn an vui,
hạnh phúc, không còn mê lầm hay phiền não, là nơi Phật A Di Đà đang giáo hóa.
Ðó là cõi của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, của những người đắc đạo.
Theo Phật giáo, ở
cõi CLTG, nhà cửa, đền đài, cung điện, ao hồ đều rất đẹp được làm bằng bảy món
quí báu gọi là Thất bảo, có hoa Tiên rơi xuống như mưa, có chim linh hót thanh
tao. Người ở cõi nầy muốn gì có nấy, chỉ cần tưởng là có liền. Mục đích của người
tu Phật giáo là được đắc quả lên Cực Lạc Niết Bàn, giải thoát khỏi luân hồi.
Cõi này ở từng Trời thứ 10, đó là từng Trời Hư Vô Thiên, do Ðức Nhiên Ðăng Cổ
Phật chưởng quản..
Các nước thuộc Phật
giáo Bắc tông như Việt Nam có tông phái Tịnh Độ rất thịnh hành, lấy việc niệm
danh hiệu Phật A Di Đà làm pháp môn tu cơ bản, cầu sau khi chết được vãng sinh
qua cõi Cực Lạc, để có điều kiện tu học thuận lợi, dễ dàng hơn cõi Sa Bà này.
[12] Khi vừa ngừng thở thân xác rất đau đớn lại đụng
chạm vào thân xác gây đau đớn gấp ngàn lần sinh tâm sân hận sinh vào ác đạo;
than vãn khóc lóc hương linh lưu luyến, tiếc nuối thì không vãng sinh Cực Lạc
được.
[13] Niệm 念: là nghĩ nhớ, nhớ rõ. Sách Phật cũng nói tới
phép sáu niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là luôn luôn nghĩ nhớ tới Phật,
Pháp, Tăng là Tam bảo; Niệm Giới là nghĩ tới giới luật phải gìn dữ không được
sai phạm ; Niệm Thí là nghĩ tới việc bố thí, giúp đỡ người khác ; Niệm
Thiên là luôn luôn nghĩ tới điều thiện phải làm để được tái sinh lên các cõi trời
Trời.
Niệm Phật là hành động
phổ thông nhất trong hàng ngũ Phật tử tại gia cũng như xuất gia. Phật tử gặp
nhau chào nhau bằng “Nam mô A Di Đà Phật”.
Còn Tụng niệm
(H : 誦念, A: To pray,
P: Prier) là tụng kinh thành tiếng và
tưởng nghĩ tới Phật.
[14] Có trong cuốn NGHI THỨC HỘ NIỆM của Thích Chiếu
Nguyện do Giáo hội Phật giáo Việt Nam phát hành năm 2013 (2557 Phật lịch).
[15] Kệ 偈 là những bài thơ ngắn
để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một bài kinh, hoặc để răn dạy đệ tử,
hoặc để cầu nguyện. Mỗi câu từ ba đến 8 chữ
và cứ bốn câu thành một bài kệ. Kệ tán là bài kệ để tán thán công đức.
[16] Nguyện chuyển kết quả những việc làm thiện lành cho
người khác, như cho cha mẹ, họ hàng, bè bạn, hay là cho tất cả mọi người, tất cả
chúng sinh. Bài này thường đọc cuối mỗi thời tụng kinh.
Bộ chăn ga gối everhome EC532 sản xuất theo quy trình công nghệ hiện đại với đường may vô cùng tỉ mỉ và tinh tế
Trả lờiXóa