Trong quá trình đi
tìm cội nguồn dòng họ, tôi đã tìm hiểu về việc hình thành thành tố “họ” và cách
gọi nhau của dân ta thủa lập quốc thấy có nhiều lý thú và chưa từng có ai kết
luận. Dòng họ nào cũng tự hào truyền nhau rằng họ mình có từ thời Hùng Vương!
Song sự thật thế nào và vì sao các từ chỉ tộc danh của ta cứ na ná bên Bắc quốc,
liệu nó có gì giống, khác nhau?
Cũng như quá
trình thống nhất quốc gia, việc hình thành “họ” ở Việt Nam diễn ra muộn hơn so
với người Hán và quá trình đó gắn với việc dựng nước và đấu tranh giữ nước, giữ
gìn bản sắc dân tộc. Tính ngoan cường của “Văn hóa làng xã” đã giúp cho người
Việt tuy “Sơn Thủy tương liên” 山水相联,
“Văn hóa tương thông” 文化相通 với người Hán, chịu ảnh hưởng của nó nhưng
không bị đồng hóa 漢化.
1. Trong nhà nước
sơ khai Văn Lang dân ta đã có họ ?:
Họ của người Việt
có
thể đã có từ thời lập quốc bởi từ thời Hùng Vương thứ VI Hùng Huy Vương
雄暉王 dân Việt đã biết đến đạo Phật và năm 111
người Giao Chỉ 交趾, Cửu Chân 九真 đã có sổ hộ 戶籍. Có điều gồm những “họ” gì thì chưa tìm thấy tư liệu. Muốn xác định được
thủa quốc sơ dân ta đã có yếu tố “họ” chưa cần khôi phục cách phát âm từ mà sau
này được gọi là “tộc danh” ở thời đó như thế nào, nghĩa của những từ ra sao, gắn
với sự vật hiện tượng nào, được viết (nếu
đã có chữ Khoa đẩu) ra sao? Nhưng đến nay vẫn chưa hội đủ các điều kiện đó
mà sử sách lại không nói đến.
Do
vậy, về sử liệu, có thể nói: dù độc lập dưới quyền Hùng-Thục (文郎 và 甌雒, -208/179 tCn), Hai Bà
(徵氏姐妹, năm 43) hay nằm trong Nam Việt
(南越, 207 tCn-111 tCn), đến thời
đó người Việt chỉ có tên[1]
và đến tận thời Triệu Thị Trinh (趙貞娘, 226-248) nữ
quyền vẫn hầu như áp đảo. Các tộc danh mà sau này sử Việt nói đến là dùng để chỉ
cả một bộ tộc, không nhất thiết có quan hệ huyết thống gốc. Hồng Bàng là tên bộ
tộc 鴻龐氏,các Vua Hùng không phải họ Hùng 雄 hay họ Lạc
雒. Các nhân vật lịch sử như Hai Bà Trưng (徵側 và 徵貳)[2]
cùng các Nữ tướng của Bà; Cao Lỗ (高魯, ? – 179) hay Danh thần như Tản Viên Sơn Thánh 傘圓山聖 (Sơn Tinh 山精) Nguyễn
Tuấn 阮俊 mà người Việt
đang thờ đủ cả họ, tên là do các nhà Nho sau này theo sách Tầu mà thêm thành tố
“họ” vào! Do vậy, nếu thấy trong Thần phả 神譜, Bia đá 石碑 tại các Đền,
Miếu ghi tên Thần mà có họ trùng với chữ chỉ họ mình cũng chớ vội cho rằng họ
ta đã có từ thời đó và vị Thần ấy là Thuỷ tổ của họ mình, dù vị ấy có thật, có
cha mẹ, quê quán, là Nhân Thần!
2. Người Việt có đủ
“họ tên” từ khi nào?
Sử liệu ghi thành
tố “họ” của người Việt khởi nguồn trong thời Bắc thuộc lần thứ hai (北屬時代, 43-541) do ảnh
hưởng của văn hoá Trung nguyên. Cụ thể là khi Sĩ Nhiếp (士攝, 187-226) do nhà Đông Hán (東漢, 25-220) phái
sang làm Thái thú 太狩 cai trị Giao Chỉ bộ 交趾步. Ông này đem tư tưởng Khổng giáo (Khổng Tử Khâu 孔子邱 sáng lập 551 tCn), đưa chữ[3],
khuôn phép Bắc quốc vào thực hiện ở Nam, cải Giao Chỉ 交趾 thành Giao Châu (交州, 203) :
Nho Lưu lại có
Sĩ Vương,
Song hành với quá
trình trên, để tiện cho việc quản lý, cai trị (theo dõi hộ khẩu, nhân khẩu, quân dịch, thu thuế) quan lại nhà Hán
buộc phải đưa thành tố “họ” vào tên của người
Việt. Từ đó mỗi người Việt đều có họ tên đầy đủ chép trong Sổ hộ và họ đó được
hình thành từ các nguồn:
- Người chép sổ dịch, phiên âm họ vốn có, tự đặt của người Việt;
- Quan đô hộ đặt họ với những người chưa có “họ”;
- Những quan lang 官郞, thổ ty 土司, tù trưởng 酋長, chức dịch
职役…làm việc với quan lại đô hộ đã nhiễm và bắt chước văn hoá Hoa Hạ nên đặt họ
cho mình, con cháu mình.
Trong những trường
hợp trên thì một cách tiện, nhanh lại hiệu quả trong việc “Hán hoá”, quan lại
nhà Hán đã đưa những “họ” đã có sẵn bên chính quốc mà sau này được chép trong
Bách gia tính 百家姓[5] nhập sang và “họ” đó được đọc theo tiếng của người Giao Chỉ (âm Hán Việt), chứ không đọc theo âm người Hán.Ngoài ra hậu duệ của những quan lại, thổ tù 土司, chúng dân 黎民 người Bách Việt vùng Hoa Nam[6] do bất mãn hay chống đối Hán triều phải di cư xuống hay
các quan cai trị đã lấy vợ người Việt, định cư ở Giao Chỉ[7] thì đương
nhiên vẫn mang theo tộc danh bên cố quận, trừ trường hợp cần mai danh ẩn tích 埋名隱跡.
Ngoài những họ đơn
còn có họ kép (như Đặng Trần 鄧陳, Nguyễn Phúc 阮福...); có họ có hai âm gọi (như Lương/Lường 梁, Vũ/Võ 武, Hoàng/Huỳnh 黄)...rồi con khác họ cha, con chú con bác ruột lại mang họ
khác nhau...; việc ban “quốc tính”, cải họ, bức họ… là những vấn đề lý thú
nhưng không thuộc phạm vi chuyên khảo này.
Không cần hiểu
sâu về quá trình hình thành Tính-Thị-Tộc, đa số người Việt đều biết đến bốn từ:
“Tính” 姓 (con cháu gọi là “tử tính” 子姓, thứ dân gọi là “bách tính” 百姓; “Thị” 氏 (họ, ngành họ), “Tộc” 族 (cha, con, cháu là
ba dòng là”tam tộc” 三族; Cao tổ đến huyền
tôn gọi là chín dòng là “cửu tộc” 九族) và “Họ” 𣱆 chỉ vấn đề này.
Trong đó, “họ” là từ Việt (khi viết mượn
chữ “hộ”户 và “ thị” 氏 của Hán tự), còn ba
từ kia là Hán Việt. Do có từ Nôm chỉ họ nên chứng tỏ người Việt có họ từ trước
khi chữ Nôm[8] ra
đời, nếu không sẽ phải dùng thuần Hán. Theo cách hiểu của dân gian, họ là thành
phần đứng đầu của họ tên, để chỉ một gia tộc gồm những người cùng liên hệ huyết
thống với nhau. Trong thực tế, thường dùng hai từ Tộc 族 và Thị 氏 để viết
gia phả, ví dụ: “Nguyễn Phước tộc Lược biên”, “Lương tộc Gia phả”, “Lê thị Gia
phả”; còn chữ Tính 姓 thường đi chung với tính danh[9].
Riêng trong vùng người Mông, người Dao ở miền núi phía Bắc, có họ tộc danh
phiên âm qua Hán Việt, có họ lại phiên âm qua tiếng Quan Hỏa 官話 hoặc âm của
dân tộc mình nên tưởng khác họ nhưng lại là chung. Ví như Giàng/Dương, Pờ/Bạch
Tẩn/Đặng, Lù/Lục, Phàn/Bàn, Chảo/Triệu, Vàng/Vương, Tao/Đào… Còn đối với một số
họ chỉ có ở người Trung, hay ngược lại có họ chỉ có ở người Việt (Nam Trung bộ trở vào và vùng Tây Nguyên)[10] không có chữ phồn thể hoặc ghi theo lối pinyin (phiên âm) bằng chữ Latin tương ứng thì nó không giống với cách đọc
họ người Việt. Chắc chắn những họ đó có nguồn gốc tộc danh khác với những gì
chép ra ở đây[11].
3. Ý nghĩa của chữ
ghi tộc danh:
Ngày đó nước ta chưa có chữ viết
hoặc có nhưng đã thất truyền[12],
chưa tiếp xúc với văn hoá phương Tây[13]
mà dùng Hán tự. Do vậy chữ ghi họ Việt đều giống chữ ghi tộc danh tương ứng của người Hán nhưng người Việt đọc
theo âm Hán Việt thời thuộc Đường (唐朝, 618 – 907) về trước còn người Hoa
đọc bằng tiếng Hán. Ví dụ người Việt có: Nguyễn, Lê, Phan, Phạm, Ngô, Trần, Lý,
Đỗ, Cao, Hồ, Vũ, Trương, Vương, Mã, Lưu, Lâm, Bùi, Phùng, Văn, Tăng, Hạ, Hoàng,
Tôn, Tống, Tô, Hàn, Hà, Thái, Đinh, Đoạn, Đồng, Chu, Dương, Đàm, Giang, Mạc,
Mai, Mạnh, Đặng, Trịnh, Lương... là âm Hán Việt, chép ra chữ Hán 漢字 là: 阮,黎, 潘, 範, 吳,陳,李, 杜, 高,胡,武, 張, 王, 馬, 劉, 林, 裴, 馮, 文, 曾, 賀, 黃, 孫, 宋, 蘇, 韓, 何, 蔡,丁, 段,童, 朱, 楊, 譚, 江, 莫, 梅, 孟, 鄧, 鄭, 梁…giống như chữ chỉ họ người Trung Quốc. Do vậy, dẫu có
yêu nước đến mấy, cao lòng tự tôn đến đâu khi tìm hiểu về “họ” và việc hình
thành “họ”, nhất là với người Kinh miền Bắc, vẫn buộc phải dựa vào tư liệu từ sử
Hoa 華史,tất nhiên phải đối chiếu với sử Việt.
Các chữ
chỉ tộc danh có khi có một ý nghĩa ngữ nguyên nhất định (hoặc tượng vật, hoặc cây cỏ, hoặc cầm thú,
hoặc vùng đất, sự kiện hay nghề nghiệp, chức tước…). Theo dòng lịch sử, với
người Việt, chữ chỉ tộc danh ban đầu dùng chữ Hán, rồi sang chữ Nôm cuối cùng
mượn chữ cái Latin[14]
ghi âm Việt như hiện nay. Do vậy ngữ nguyên gốc của chữ đó bị lãng quên hay sai
lệch đi, mỗi người nói một kiểu nên khó và cũng không cần thiết tầm nguyên ý
nghĩa ban sơ của chữ ấy. Hoặc một số họ
mà chữ ghi tộc danh có nghĩa không hay nhưng tộc đó đâu có đổi. Ví dụ họ Mao (毛, lông, râu tóc), họ Mã (馬, con ngựa)…. Nhưng chú ý rằng, chữ giản
thể 簡體字 mới xuất hiện nên khi ký âm tộc danh, xác định Ngũ hành 字意五行, định “Cát” 吉, “Hung” 凶, xác định số nét 笔划, bộ Thủ 部首 của chữ chỉ tộc
danh (để đặt tên cho con, dựng vợ gả chồng,
chọn đối tác, dự đoán vận số…) phải dùng chữ phồn thể (繁體字, truyền thống) mới có giá trị. Bởi chữ
Hán phồn thể, bao hàm văn hóa và tư tưởng truyền thống của Trung Hoa nên mỗi ký
tự là một câu chuyện còn chữ giản thể thì không có được ý nghĩa đó.
4. Chúng ta là người
Việt Nam :
Kết cấu họ tên
(H: 姓名,A: Name
and forename, P: Nom et prénom) của
người Việt thường cũng gồm 3 thành tố như người Hoa là: họ + chữ đệm + tên.
Song trong giao tiếp thì người Việt ít nhắc đến họ mà chỉ gọi tên và thường kèm
từ “anh”, “em”, “cô”, “bác”, “chú”, “ông”, “bà”, “cụ”…đứng trước tên chứ không
gọi: Phạm tướng quân 范将军, Đặng
Giám đốc 鄧经理, Lương Bác sĩ 梁大夫, Nguyễn tiểu đệ 阮小弟...như người Hoa! Đồng thời người Việt dùng chữ “Văn” 文, “Thị” 氏 làm tên đệm để phân biệt
nam nữ còn người Hoa thì không. Thời hiện đại, các họ mà người Việt gọi là: Phạm,
Ngô, Trần, Trương, Mã, Lưu, Phùng, Hạ, Hoàng, Tôn, Tô, Hàn, Dương, Đàm, Đặng,
Trịnh… khi dùng Hán tự 漢字 thì được
chép bởi các chữ truyền thống 繁體 là: 範, 吳, 陳, 張, 馬, 劉, 馮, 賀, 黃, 孫 ,蘇, 韓, 楊, 譚, 鄧, 鄭… thì bên Trung Quốc gọi là: Fàn, Wú, Chén, Zhāng, Mǎ, Jiǎn,
Féng, Hè, Huáng, Sūn, Sū, Hán, Yáng, Nóng, Dèng, Zhèng… và được viết bởi chữ 簡體 ít số
nét hơn các chữ tương ứng ở trên: 范, 吴, 陈, 张, 马, 刘, 冯, 贺, 黄, 孙, 苏, 韩, 杨, 谭, 邓, 郑...
Đồng thời, nên nhắc
lại rằng nguồn gốc chữ chỉ tộc danh không đồng thời là nguồn gốc của tất cả những
người mang họ đó. Do ảnh hưởng của văn hóa Hoa Hạ nên chữ ghi tộc danh tương ứng bên Hoa và Việt nếu ghi bằng
Hán tự 漢字 là như nhau (tất nhiên là đọc bằng tiếng
Việt và tiếng Hán là khác nhau) nhưng không phải những người mang họ giống người
Hán đều có nguồn gốc từ bên kia dãy Phân Mao 分茅嶺[15].Cho nên
không phải e ngại khi nói chữ chỉ tộc danh “Đặng” 鄧, “Trần” 陳, “Lý” 李, “Lương” 梁… xuất
phát từ văn hoá Trung Hoa.
Người họ Lương,
cũng như một số họ khác đúng là có một bộ phận là từ Trung Quốc đến[16]
Việt Nam trong những cuộc di cư vào thời đại đồ đồng (青铜时代, <2100 tCn), khi nhà Tần (秦王, 246 tCn-221 tCn) diệt Bách Việt (249 tCn- 221 tCn), khi nhà Nguyên (元朝, 1271 - 1368) thay nhà Tống (宋朝, 960-1127), nhà Thanh (大清國, 1644-1911) thế nhà Minh (明朝,1368 - 1644), sau phong
trào Thái Bình Thiên Quốc (太平天國, 1851–1864)... Ngược lại cũng có
1 số dòng họ Lương Việt Nam (hậu duệ Lương Nhữ Hốt 梁汝笏…) chuyển sang định cư ở Trung Quốc.
Như vậy, nguồn gốc
dòng họ là bản địa hay từ đâu đến không hề ảnh hưởng đến bản chất và danh dự của
dòng họ và những người mang họ Lương, nhiều đời tổ tiên là người Việt, có quốc
tịch Việt Nam là dòng họ Việt đích thực và có một vị trí xứng đáng trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Điều đó đã được khẳng định!
Đồng thời, trong
lịch sử và hiện nay do chuyển cư (có tổ
chức hay tự phát), do điều động, do định cư ở quê ngoại… mà ít có làng xã
cùng chung một họ và một dòng họ không chỉ còn tụ cư ở nơi “quê cha đất tổ” mà
sống rải rác khắp nơi. Do vậy những thành viên xa đời của cùng một Cụ Tổ sinh sống
trên nhiều miền và đôi khi nhiều quốc gia khác nhau[17]
và ngược lại, trong một vùng có những người mang chung một tộc danh lại không
cùng họ hoặc tuy khác tộc danh lại vốn cùng một họ!
-Lương Đức Mến, tháng 11/2013-
[1] Hoặc có thể đã có nhưng được
ghi bằng thứ chữ cổ (chữ Khoa đẩu) đã bị xóa sổ bởi nghìn năm Bắc thuộc.
Trong hàng trăm họ của người Việt thì
người họ Ma (vùng Cẩm Khê, Phú Thọ) tự hào là dòng họ cổ nhất, có từ đời
Hùng Vương thứ 1ùng Tuyền Vương 雄璿王. Tộc trưởng đầu tiên là Ma
Khê (con Hùng Nghị Vương 雄毅王) mất năm 259 trước Công
nguyên, thọ 95 tuổi đến 2013 là đời 79 với tộc trưởng đời 77 là Ma Văn Bảo.
Cuốn Gia phả quý báu đó được Tổ đời thứ 75 là Ma Văn Thị (1878-1950)
tuyền cho con là Ma Văn Thực (1917-2004). Chính cụ Thực chuyển tải tất
cả các thông tin sang chữ quốc ngữ.
[2] Có ý kiến cho rằng gia đình hai Bà làm
nghề nuôi tằm nên con gái lớn gọi là "trứng chắc", người em là
"trứng nhì". Khi chép sử, người TQ đã dùng chữ
徵 (Trưng)
ghi âm “trứng”, chữ 側 (trắc) ghi âm “chắc” ,
chữ 側 (nhị) ghi âm “nhì”, các sử gia Việt Nam "dịch"
lại thành ra Trưng Trắc, Trưng Nhị !.
Lại có ý kiến cho rằng hai Bà thuộc dòng dõi
Quan Lang thứ 18 của Hùng Vương thứ VI Hùng Huy Vương 雄暉王, là Tiết
Liêu còn gọi là Lang Liêu. Ông là người dâng Bánh Chưng, Bánh Giầy cho vua cha
ngày Tết sau chiến thắng giặc Ân được truyền ngôi thành Hùng Vương thứ VII là
Hùng Chiêu vương 雄昭王. Để ghi nhớ công đức tổ tiên hậu duệ
của vị Vua tài danh hiếu nghĩa này đã lấy họ mình là “Chưng” ( 症, trong bánh chưng), được quan lại nhà Hán phiên thành “Trưng” 徵.
[3] Nhiều tác giả cho rằng chữ
Hán du nhập vào Việt Nam từ trước đó, vào khoảng thế kỷ 1 trước công nguyên
thời Tây Hán (西漢, 111 tCn-24 sCn), còn gọi là chữ Nho. Trong suốt
thời gian Bắc thuộc, tiếng Hán đã được giảng dạy ở đất Việt và người Việt chấp
nhận ngôn ngữ mới đó song song với tiếng Việt, tiếng nói truyền miệng nhưng đã
phát triển theo hướng khác với sự phát triển tiếng Hán ở chính quốc. Cách phát
âm chữ Hán dựa vào cách đọc của người Hán trước thời Đường (唐朝, 618 –
907) theo âm
của người Việt tạo ra âm Hán-Việt.
Đỉnh cao của Khoa cử người Việt thời Bắc thuộc là Khương Công Phụ (姜公輔, 730-805),người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển, châu Ái (nay là làng Tường Vân, xã Định
Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) đỗ Tiến sĩ 進士 năm Quảng
Đức thứ hai (廣德二年, 764) đời Đường Đại Tông (唐代宗,726-779),
được bổ làm Hữu thập di Hàn Lâm học sĩ 右拾遺翰林學士, kiêm chức Kinh triệu hộ tào
tham quân Kinh triệu hộ tào tham quân về sau thăng tiến tới chức Gián Nghị Đại
Phu, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (諫議大夫同中書門下平章事, như Tể Tướng 宰相).
[4] Trích “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” 大南國史演歌. Nho lưu: dòng dõi con nhà
Nho (儒家, confucianisste); Thù 洙, Tứ 泗 tên 2 con
sông nơi Khổng Tử thuyết pháp, gộp thành từ chỉ đạo Khổng.
[5] Văn bản ghi lại các họ
phổ biến của người Trung Quốc được một văn nhân ở Tiền Đường, Hàng Châu (chưa
rõ tên) soạn vào thời Bắc Tống (北宋, 960-1127). Ban đầu
danh sách có 411 họ, sau đó tăng lên 504 họ, gồm 444 họ đơn 单姓 (chỉ
gồm một chữ, ví dụ Triệu 趙, Hồ 胡,...) và 60
họ kép 复姓 (gồm hai chữ, ví dụ Tư Mã 司馬, Gia
Cát 诸葛, Hạ Hầu 夏侯...). Các
họ đầu tiên được nói tới trong danh sách là họ của các hoàng đế, trước hết là
Triệu (趙, họ của Tống Thái Tổ 宋太祖 Triệu
Khuông Dẫn 趙匡胤), sau đó là Tiền (錢, họ của
các vua nước Ngô Việt 吳越國, 907-978), Tôn (孫, họ của
chính phi Ngô Việt Vương) và Lý (李, họ của các vua nước
Đường-Đường Cao Tổ Lý Uyên 高祖李淵, 618- 626). Toàn bộ văn bản được xếp
vần điệu và có thể đọc lên như một bài thơ 4 chữ một câu, vì vậy đôi khi trẻ em
Trung Quốc sử dụng tác phẩm này để học vỡ lòng bên cạnh cuốn Tam Tự Kinh 三字经. Trong
cuốn này họ Lương xếp thứ 128 傳統百家姓排名第 128 名 và được chép
trong câu: “项 Hạng, 祝 Chúc, 董 Đổng, 梁 Lương”.
[6] Chỉ miền Nam
Trung Quốc, vùng đất từ sông Hoài 淮河 và dãy Tần
Lĩnh 秦嶺 xuống gọi là Hoa Nam. Cũng có trường hợp
phân vùng này thành vùng nằm giữa hai sông Hoàng Hà và Trường Giang gọi là vùng
Hoa Trung và vùng phía Nam sông Trường Giang gọi là Hoa Nam hoặc Giang
Nam.
[7] Ví như họ Hồ
đều là hậu duệ của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật 胡興軼. Ông này vốn
thuộc tộc Bách Việt ở Chiết Giang sang làm Thái thú Diễn Châu đời Hậu Hán (947-950) rồi định cư ở Nghĩa Đàn, Nghệ
An.
Hay như họ Vũ nhiều nơi nhận là hậu duệ của Vũ Hồn (武渾, 804 – 853).
Ông vốn là con quan phủ nhà Đường (唐朝, 618-907) tên là Vũ Huy, ở làng Mã
Kỳ, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến. Sau khi từ quan Vũ Huy đã
đi du ngoạn phương Nam. Khi dừng chân tren đất Giao Châu đã lấy một người thôn
nữ tên là Nguyễn Thị Đức tại làng Mạn Nhuế thuộc huyện Thanh Lâm đất Hồng Châu
(sau này là tỉnh Hải Dương). Ngày 8 tháng Giêng năm Giáp Thân bà Đức
sinh con trai, đặt tên là Vũ Hồn. Vũ Hồn từng giữ chức An Nam Kinh lược sứ 安南经略使.
[8] Do nhu cầu ghi địa danh, tên
người hoặc những khái niệm không có trong Hán tự, người Việt đã sử dụng chữ Hán
để tạo ra chữ viết của mình, đó là chữ Nôm 字喃 với những nguyên lý khá phức
tạp. Đây là văn tự ngữ tố, mỗi chữ biểu thị một âm tiết của tiếng Việt. Chữ Nôm
là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu
tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Chưa xác định chính xác thời
điểm hình thành chữ Nôm chỉ biết rằng chữ Nôm được ghi nhận thành quốc ngữ 國語, chính
thức xuất hiện và phát triển khi quan Hình bộ Thượng thư 刑部尚書 Nguyễn
Thuyên (阮詮, tức Hàn Thuyên 韓詮, 1229-?) vâng lệnh Trần
Nhân Tông (陳仁宗, 1279-1293), làm bài “văn Tế cá sấu” 文祭 𩵜𩽉 bằng chữ Nôm vào mùa thu năm
Nhâm Ngọ 壬午 1282, khi quân Nguyên (元朝, 1271 - 1368) đang ráo
riết chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ 2. Tuy nhiên, chữ Nôm vì được cấu tạo
trên căn bản chữ Hán, nên khi muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán nên vẫn
không phổ thông và ít được sử dụng rộng rãi.
[9] Tính, Thị, Tộc có nghĩa giống
như Anh ngữ dùng các từ: Surname, Last name, Family name để chỉ tên họ.
[10] Điều đó có nghĩa không
phải tất cả người Việt đều là hậu duệ của “Bách Việt” cổ, mà là người bản địa ở
miền núi trung du Bắc bộ, Thanh Nghệ, ven biển miền Trung, Tây Nguyên và Nam
bộ.
[11] Trong những chuyến đi công
tác và sống với cán bộ vùng Văn Chấn (trước 1976 thuộc Nghĩa Lộ, từ 1991
thuộc Yên Bái) hồi còn tỉnh Hoàng Liên Sơn tôi thấy người Tầy ở đây tuy cùng
họ Hoàng nhưng có “Hoàng chay” (cúng giỗ chỉ dùng rau) và “Hoàng tạp” (cúng
giỗ có bày thịt).
[12] Những năm gần đây, một số học
giả cho rằng người Việt cổ từng có chữ
viết là bộ chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ dùng để ghi
tiếng nói của người Việt, nó giống hình con nòng nọc nên gọi là Khoa đẩu văn 蝌蚪文,được xếp
vào lối chữ Loan hoàng khoa đẩu 鸞凰蝌蚪. Trong nghìn năm Bắc thuộc (北屬時代, 207
tCn-938), chữ Việt cổ ấy đã bị tuyệt diệt do âm mưu Hán hóa. Do vậy không
thể phổ biến và không còn lưu truyền đến nay.
[13] Mãi đến khoảng thế kỷ XVIII
khi nội bộ Trung Hoa lục đục suy yếu thì người Việt Nam bắt đầu tiếp thu thêm
những bản sắc đến từ Âu-Mỹ.
[14] Giữa thế kỷ 16, khi đến Đại
Việt để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ phương Tây như Francisco de Pina (1585-1625),
Gaspar d’Amaral (1594-1646), Antonio Barbosa, Alexandre De Rhodes (tức
Cha Đắc Lộ 神父, 1591-1660)…sau này là Pigneau
de Behaine (tức Bá Đa Lộc 百多祿, 1741- 1799) có sự hợp
tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt, trước hết là các thầy giảng đã
nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ dùng chữ La tinh để ghi âm tiếng Việt dùng cho
việc giảng đạo bằng ngôn ngữ bản địa. Đây loại chữ lấy âm tố làm đơn vị, có quy
tắc khoa học, dễ viết, dễ phát âm, dễ học. Nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp
các Cha giảng, truyền đạo trong lúc cả nhà Trịnh và nhà Nguyễn đều thực thi
chính sách cấm đạo nên chữ Quốc ngữ đã
không thể phát triển, truyền bá rộng rãi. Đến khi toàn quyền Đông Dương Martial
Merlin (1923-1925) vào ngày 18/9/1924 ký quyết định dạy chữ Quốc ngữ ở
ba năm đầu cấp tiểu học thì sự truyền bá chữ Quốc ngữ mới được chính thức, rộng
khắp ở mọi nơi trên mọi lĩnh. Sau khi giành chính quyền, tuyên bố độc lập,
08/09/1945 Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà có Sắc lệnh số 20 về học chữ quốc ngữ bắt buộc
và không mất tiền cho tất cả mọi người. Tuy nhiên các văn bản truyền thống (Gia
phả, Văn sớ…) và ngay trên văn bản của nhà nước vẫn xen dùng chữ Hán. Ví
dụ: Giấy Khai Sinh năm 1938 vẫn còn sử dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc ngữ
và Pháp); tiền Đông Dương (P: Piastre indochinoise, H: 法屬印度支那元) phát
hành và lưu thông trong thời gian từ năm 1885 đến năm 1954 có dòng chữ Hán 東方滙理銀行 (Đông
phương hối lý ngân hàng). Sau này trên tờ tiền giấy do Chính phủ VNDCCH
phát hành vào ngày 31/01/1946 và lần đổi tiền ngày 06/5/1951thì tên nước và
mệnh giá viết bằng Quốc ngữ (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và chữ Hán (越南民主共和); chỉ
từ sau lần đổi tiền ngày 28/02/1959 trở đi thì mới hoàn toàn không còn chữ Hán.
[15] Núi này ở Cổ Sâm, cách Khâm Châu khoảng 3 dặm về phía
tây. Tương truyền trên đỉnh núi có thứ cỏ tranh, do ảnh hưởng của khí hậu và
địa thế, ngọn cỏ ngả theo hai hướng Bắc và Nam cho nên mới có tên gọi là núi
Phân Mao, nghĩa là núi có thứ cỏ chia ra làm hai hướng. Sách sử cổ thường chép
từ miền nam núi Ngũ Lĩnh là miền Hoa Nam từng là đất của Bách Việt mà nhà Hán, Đường
đã dần xâm chiếm và đồng hoá thành người Trung Quốc, trừ Lạc Việt! Tương truyền
nơi đây có “Cột đồng Mã Viện”. Năm 1540,
Mạc Đăng Dung trả cho Minh triều nên từ đấy núi Phân Mao thuộc về đồ bản nhà
Minh. Trong quá trình đàm phán (1885 - 1895) Pháp (đại diện là Ðại tá Servière
sau là Ðại tá Galliéni) -Thanh (đại diện là Tổng
lý Ðại thần Thái Hy Bân 蔡希邠) để cắm mốc
biên giới An Nam-Đại Thanh, người Pháp đã để tổng Kiến Duyên (4 xã: Kiến
Duyên, Ðồng Tâm, Ðồng Tông, Hoành Mô), Bát Trang (8 xã và 1 xóm: Bắc
Nham, Thượng Lại, Mông Sơn, Cổ Hoằng, Vũ Khê, Tiêu Sơn, Tuy Lai, Hoằng Mông và
xóm Ðông Sơn thuộc xã Tiêu Sơn) cho Trung Quốc, núi Phân Mao thành vào sâu
trong nội địa Trung Quốc.
[16] Chuyện này trên thế giới
không phải là hiếm. Trong nhiều trường hợp dân di cư trở thành lãnh tụ của dân
bản địa. Điển hình liên quan đến Hoa-Việt là :
Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa
Singapore (từ năm 1959 đến năm 1990) là Lý Quang Diệu (李光耀, sinh
năm 1923) vốn tổ tiên là người Khách Gia 客家 ở huyện Đại Bộ 大埔, tỉnh
Quảng Đông 廣東 đến Singapore vào năm 1862 bởi Tổ phụ 祖父 là Lý Mộc
Văn (李沐文, Lee Bok Boon, sinh năm 1846). Ông đã lãnh đạo
hòn đảo Sư tử này rất thành công trên mọi mặt, trong đó có việc độc lập về
chính sách ngoại giao với Trung Hoa.
Hay như Lý Thừa Vãn (Rhee Syngman hay Lee Seungman hay Yee Sung-man hoặc
I/Ri Seung-man, H: 李承晩, Hàn: 이승만), 1875 – 1965) là vị
tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc (1948-1960, 대한민국 대통령/ 大韓民國 大統領.) vào ngày
6 tháng 11 năm 1958, trong dịp viếng thăm Việt Nam Cộng hòa (06/11/1948)
từng nói rằng tổ tiên ông là người Việt. Có tài liệu nói ông là hậu duệ đời thứ
25 của Kiến Bình Vương Lý Long Tường (李龍祥, 이용상 , sinh
năm 1174) mà Long Tường là con thứ bảy của vua Lý Anh Tông (李英宗, trị
vì 1138-1175) của Đại Việt và ông đến tị nạn tại Trấn Sơn, huyện Bồn Tân,
tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly 고려, 高麗 từ 1226.
[17] Ví dụ : - Nhà tư
tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Hoa thời cổ là Khổng Tử (孔子, tức Khổng
Phu Tử 孔夫子, 551- 479 tCn) ngày nay tính lên đến vài triệu hậu
duệ, dù nhiều người không còn là người Hán hoặc không có quốc tịch Trung Hoa.
- Khả Hãn sáng lập ra Đế quốc Mông
Cổ là Thành Cát tư hãn” (成吉思汗, 1162-1227) không chỉ là một nhà lãnh đạo lỗi lạc, quan trọng của lịch
sử thế giới, mà còn được mệnh danh là “người truyền giống thành công nhất trong
lịch sử”. Do vậy đến thời hiện tại có khoảng 16 triệu hậu duệ của ông đang sống
rải rác khắp nơi trên toàn thế giới.
Song song với việc xác lập chủ quyền tại các vùng đệm” ở biên viễn, nhà Nguyễn ráo riết thực thi chính sách cải hoá dân bản địa, trong đó có việc đặt “họ” cho những nhóm người chưa có họ hoặc mang những họ khác phong hoá Đại Nam (大南, 1820 (CT: 1839)-1945).
Trả lờiXóaVí dụ năm 1832, Minh Mạng (明命阮聖祖, 1791- 1841) ban cho Thổ ti Trấn Ninh là Phòng ngự sứ Chiêu Huống họ Kiều đồng thời ban cho chúng dân vùng này những tên họ: Cáo, Cát, Cầm, Cần, Cổ, Chuyên, Dụ, Đa, Định, Đôn, Hào, Hảo, Hâm, Kiện, Kiệu, Khả, Khâm, Lang, Lương, Mỹ, Nham, Sầm, Sơn, Tạo, Thành, Thiệt, Trác, Tri, Trình, Triển, Uất.