Xưa nay khi nói đến Nguyễn Bỉnh
Khiêm, đa phần ai cũng nhắc đến Sấm ký và bộ Thái Ất Thần kinh. Đồng thời ai
cũng bảo Thái Ất Thần kinh là sách do Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đem từ Bắc quốc
về truyền cho trò yêu. Nhưng cụ thể câu chuyện đó ra sao thì mỗi người kể một
kiểu nên nó cũng kỳ bí như chính môn “Dự đoán học”. Với dòng họ Lương bộ sách
này liên quan trên nhiều góc độ và tôi cũng từng hiểu như mọi người. Song qua
nhiều năm tìm hiểu, nhất là những tháng ngày rảnh việc “chờ hưu” càng tìm kỹ
càng ngẫm ra rằng “thế nhưng không phải thế”!. Nhân tháng có ngày “Nhà giáo
Việt Nam”, tưởng nhớ cặp Cha-Con thầy giáo (Lương
Hay-Lương Đắc Bằng) đào tạo cho đất Việt hai Trạng nguyên xuất chúng (Lương Thế Vinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm), thử
tìm hiểu về hậu trường bộ sách Kỳ bí “Thái Ất Thần kinh”.
1. Bí hiểm của sách “Thái Ất
Thần kinh”:
Thái Ất thần kinh 太乙神经 hay Thái Ất là một mô thức thuật số cơ bản trong tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn) của
lý số Đông phương, chủ yếu nghiên cứu các tính toán liên quan đến sự hưng vong
của các triều đại, các trận pháp ở tầm cỡ chiến lược. Trong đó, Thái Ất thiên
về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất,
đến con người.
Tương truyền sách này từ rất xưa, lâu lắm rồi, Thái Ất Chân Nhân 太乙真人[1] ban xuống trần
thế nếu hiểu được có thể biết thiên cơ, họa phúc cõi trần, nhìn thấu tương lai,
thông thiên địa hầu cứu nhân gian. Nếu cuốn sách này vào tay người hiền tài thì
có thể bảo hộ và cứu giúp nhân gian tránh được nạn kiếp; còn nếu như rơi vào
tay kẻ gian thần thì nhân gian sẽ xẩy ra đại loạn.
Lai lịch bộ sách lưu hành một cách bí ẩn từng có hai giả thuyết:
- “Thái Ất Thần kinh” là bộ sách rất quý, dạy về các môn địa lý,
chiêm tinh, chỉ cách xét đoán những việc kiết hung. Có người nói Quốc sư nhà Thục
Hán (蜀漢, 221-263) thời Tam Quốc là Gia Cát Lượng (諸葛亮, 181–234) được người đời sau tôn sùng và
mến phục tài trí, một phần lớn nhờ nghiên cứu “Thái Ất Thần kinh”. Bộ sách này
chỉ có hai bản mà Cụ Lương Ðắc Bằng may mắn có một bản sau truyền lại cho Nguyễn
Bỉnh Khiêm, còn một bản nữa ở bên Bắc quốc. Bộ sách này, cũng theo thuyết trên
đây, rất khó hiểu nên người đọc kém, không có trí thông minh siêu việt không
thể lãnh hội được dù có sách quý trong tay. Đến thời Tống (宋朝, 960-1279), một đạo sĩ rất nổi tiếng là
Triệu Nga cũng đã đúc kết kinh nghiệm cổ truyền viết thành sách nhưng chưa có
lời giải vì lời giải còn lưu lạc ở một phương khác.
- Nhưng cũng có người cho rằng bộ sách đó không có gì là kỳ diệu và
thần bí cả. Đó là sách Thái Huyền của Dương Hùng 楊雄, một danh nho sinh vào khoảng đời Hán Tuyên đế (漢宣帝, 91
-49 tCn) và mất khoảng cuối đời Vương Măng (王莽,45 tCn-23). Dương Hùng
thuở nhỏ thông minh, thích học, nhưng ghét lối từ chương, ưa tìm những điển
tích sâu xa uyên bác, chuyên nghiên cứu về dịch học. Chính ông đã làm ra sách
Thái Huyền để giảng thuyết âm dương vũ trụ, nhưng với lối văn cầu kỳ khó hiểu,
nhiều người không phục, cho là lập dị. Sở dĩ bộ “Thái Ất Thần kinh” được xem
như loại sách quý là vì người ta muốn quan trọng hóa, thần bí hóa vấn đề.
2. Hình thành “Thái Ất Thần
kinh” của người Việt:
Tương truyền rằng trong một lần đi sứ sang Minh quốc (明朝, 1368- 1644), Thượng thư Bảng nhãn Lương Đắc
Bằng (尚書榜眼梁得朋, 1472 – 1516)[2],do cơ duyên gặp người đồng tộc[3] mách bảo, thành ý nên cụ
có được bộ “Thái Ất Thần kinh” mang về, nhưng đọc cũng không hiểu mấy. Những
năm cuối thời Lê Tương Dực (黎襄翼, 1495 – 1516), nhận thấy dù
đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình thế ông cáo quan
về quê Thanh Hóa dạy học. Bởi mến, tin người trò yêu là Nguyễn Bỉnh Khiêm (阮秉謙, 1491-1585)
có cha hiền lành đức độ[4], người mẹ xinh đẹp thông
minh, giỏi tướng số văn thơ[5] và bản thân trò đặc biệt
thông minh hơn người nên ông hết lòng truyền thụ kiến thức.
Một hôm, cụ Lương Đức Bằng ốm, biết rằng mình không sống lâu được nữa
bèn gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm đến căn dặn:
- Nay thày sắp sửa xa rời các con, thày không có điều gì dặn lại
các con chỉ khuyên các con: kẻ ra làm quan thì luôn nhớ ba chữ “thanh, thận,
cần”, kẻ về ẩn dạy học thì luôn nhớ bốn chữ “an bần, lạc đạo”.
Nghỉ một lát, cụ Bảng nhãn nói tiếp:
- Thày có chút việc riêng muốn nhờ cậy con: do muộn mằn đến nay thầy
mới có con đang còn trong bụng mẹ nó và ta đã dặn nếu sinh con trai đặt tên là
Hữu Khánh. Sau này, nhờ con thay thầy mà dạy bảo và dìu dắt nó đi theo con
đường ngay. Ðược như vậy, dù thầy có ở suối vàng được mãn nguyện lắm.
Ngừng lời, Lương Đắc Bằng chỉ một cái tráp nhỏ, đặt ở đầu giường
rồi bảo Nguyễn Bỉnh Khiêm:
- Con hãy mang tráp đến đây, mở ra lấy một bộ sách mà ta đã gói kỹ
vào để sẵn trong ấy.
Nguyễn Bỉnh Khiêm vâng lời, làm theo ý thầy. Cụ Bằng lại bảo tiếp:
- Thầy cho con quyển sách này, vì thầy nghĩ chỉ có con mới có thể
hiểu nổi, nhưng con phải hứa với thầy là phải giữ gìn sách cẩn thận, đọc kỹ,
khi hiểu mang ra giúp đời, làm việc thiện. Quyển sách này được một dị nhân đồng
tộc trao cho trên đường đi sứ sang Minh quốc trở về. Cụ ấy còn dặn ta: Chừng
nào trong tâm linh muốn cho ai thì người ấy sẽ được phần. Nay, thầy giao quyển
sách này lại cho con, ấy là con có phần.
Người học trò đất Trung Am lạy tạ nhận lời. Khi Lương Đắc Bằng tạ
thế[6], Nguyễn Bỉnh Khiêm ở lại chịu
tang 3 năm. Sau đó, ông về quê, tự học và đến khoa thi năm Đại Chính thứ 6 (大正六年,Ất
Mùi, 1535) ông đi thi đỗ Trạng nguyên 狀元. Làm quan dưới triều Mạc, ông được bổ dụng Tả thị lang bộ Lại 吏部左侍郎,sau
thăng Thượng thư 吏部尚書 kiêm Đông các Đại học sĩ 東閣大學士,được phong tước Trình Tuyền Hầu 程璿侯 rồi thăng tới Trình Quốc Công 程國公 và do ông đỗ Trạng nên dân gian gọi là Trạng
Trình 狀程.
Lúc rảnh, nhất là sau khi cáo quan về quê năm 1542, nhớ lời thầy,
Nguyễn Bỉnh Khiêm mang sách đọc thấy không lĩnh hội được gì mấy, ông bèn mang
sách cất đi, thỉnh thoảng lại lấy ra đọc, đọc xong rồi lại cất, cứ như thế mãi.
Cho tới một hôm, có một người khách đến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một bài thơ. Ông
mở ra xem thì thấy ý tứ bài thơ có phần liên hệ với những câu trong bộ sách của
thầy Bằng trao, mà ông đã cất công sức đọc nhiều lần nhưng chưa thông được. Ông
hiểu đây là một phần của bộ sách bí ẩn kia và ông đã gộp chúng để nghiền ngẫm.
Nhờ kiến thức từ thầy và mẹ truyền thụ lại thấu hiểu bộ sách này mà
về sau Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông lý số, hiểu về quá khứ, đoán được tương lai,
thế cuộc. Vì vậy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra lời khuyên hữu ích với Nguyễn
Hoàng (阮潢, 1525 - 1613), Trịnh Kiểm (鄭檢, 1503-
1570), con cháu Mạc Mậu Hợp (莫茂洽, 1560-1592) đồng thời viết
ra được những lời tiên tri cho hàng trăm năm sau. Những lời tiên tri ấy tập hợp
trong tập Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng Trình 狀程讖 tiên đoán việc đời sau, gắn với nhiều
giai thoại kỳ thú.
Cũng cần nhắc lại là: ngoài việc nghiền ngẫm sách, áp dụng để đưa
ra những lời khuyên với các thế lực Nguyễn, Trịnh, Mạc nên đã giữ yên đất nước
một thời gian dài, cụ Trạng còn nuôi dạy người con trai duy nhất của ân sư là
Lương Hữu Khánh[7]
nên người theo đúng ý nguyện của thầy. Đồng thời cũng chính cụ Trạng đã cưu
mang một người cháu thầy Bằng là Lương Đắc Cam梁贵公諱甘字三郎 từ Thanh ra, đưa
sang lập nghiệp bên xã Lao Chữ 牢渚, tổng Dương Áo 陽襖, huyện Tân Minh 新縣, phủ Nam Sách 南策, trấn Hải Dương 海陽 (nay
là thôn Chử Khê, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng), lập ra nhiều
chi phái họ Lương ở Tiên Lãng, An Lão (thuộc
tf Hải Phòng) ngày nay.
Như vậy, từ sách quý do thầy
tin tưởng giao phó, do cơ duyên lại được tiếp thu kiến thức y lý từ người thầy
tài năng đức độ và trí thông minh thiên bẩm với kinh nghiệm bản thân, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã soạn ra bộ “Huyền Phạm” và sau này Phạm Đình Hổ (范廷琥, 1768-1840)
dựa vào đó soạn ra bộ là “Huyền Phạm tiết yếu”. Theo một số tác giả thì đây là
một công trình nghiên cứu công phu. Nó tổng hợp nguyên lý Âm dương, Ngũ hành,
Bát quái của Triết học cổ truyền, gộp được các cách khoa dự đoán Kỳ Môn tản mát
trong dân gian; nó là sự tổng hợp sức mạnh chuẩn xác của triết học toán rút ra
từ vũ trụ, là nguồn tri thức hữu thể để hiện thực mệnh sống của con người với
môi trường cảm ứng giữa người và trời đất cùng vạn vật.
Những giá trị đó trong sách của Dương Hùng thời Hán, Triệu Nga thời
Tống chưa đạt được. Như vậy phải chăng yếu tố “đem từ Bắc quốc về” chỉ là do
đời sau đặt ra để tăng giá trị bộ sách bởi tính “tự ti” của người Việt hồi ấy!
Bộ sách ấy do cụ Trạng đất Vĩnh Lại soạn ra, dựa vào quan điểm lý dịch Việt, có
tham khảo các sách viết về chủ đề này bên Hán, Tống. Chính người Trung Hoa đã khen “An Nam lý học
hữu Trình Tuyền”!
3. Sách quý ra với công
chúng:
Bộ sách này lưu hành bí ẩn trong dân gian, chưa được khắc in nên
luôn trong tình trạng “tam sao thất bản”. Sang Thế kỷ XX, do cơ duyên, Nguyễn
Ngọc Doãn (1912-1989) với bút hiệu là
Thái Quang Việt tiếp cận và dịch ra quốc ngữ năm 1972 gồm 5 cuốn, được Nhà Xuất
bản Văn Hoá Dân tộc phát hành với tên gọi Thái Ất Thần kinh ghi tên tác giả là
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 2002, Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc cho tái
bản sách Thái Ất Thần kinh được sửa chữa, bổ sung thêm những phần thiếu sót.
Sách quý đã tìm thấy (tuy
chưa đầy đủ), đã được dịch, đã in và phát hành (có chú dẫn đàng hoàng) nhiều người tìm đọc nhưng mấy ai đã hiểu.
Cái tâm lý “đồn thổi” của người Việt làm tăng tính ly kỳ của những lời Tiên tri
nhưng làm bí hiểm hơn những gì cụ Trạng để lại. Sinh thời, Trạng Trình cũng
thấy Thái Ất thực là khó mà khó nhất trong các môn toán của tiền nhân. Bởi thế
cụ có soạn bộ “Du Lỗ” và viết bài tựa về “Ngọc Tướng Huyền Cơ” để giúp riêng
những ai kém thông minh vẫn có thể hiểu được. Thời Nguyễn, chỉ có các quan làm
việc tại triều đình mới biết và bí mật truyền lại cho con cháu nên nó chỉ là
sách chép tay nên càng kỳ bí.
4. Tâm nguyện:
Nay sách in ra, phổ biến rộng là lợi thế của thời hiện đại nhưng
tính “nguyên bản” chắc chi đảm bảo. Trong thời @ mấy ai tinh thông thực học như
thời chữ Nho lên ngôi và tư duy kỹ thuật thời nay cũng khác xưa nên mọi lý
thuyết trong bộ sách Thái Ất Thần kinh cũng như Sấm ký chỉ nên coi là tài liệu
tham khảo. Coi nó là “mê tín” là sai nhưng sử dụng nó như là lá bùa lý giải, dự
đoán tất cả cũng không đúng.
Là người bụng chứa một phần “Ngũ xa thư” 五車書 và chỉ sô IQ chẳng đến nỗi nào nhưng đọc
đi đọc lại Phần mở đầu và 7 Cuốn với 466 trang khổ A4 mà chẳng hiểu gì nhiều
bởi lời văn cổ lại đầy những thuật toán bí hiểm (tuy đã được người dịch chú giải đề đáp), chỉ hiểu rằng: đây không
phải sách dạy xem bói!. Thế mà có người “giấu giấu diếm diếm”, bảo lĩnh hội
được và bỗng dưng trở nên “thầy” phán đủ các lĩnh vực. Phục thật! Hay mình dốt
mà không biết?
Thôi kệ họ! Ngưỡng mộ, kính trọng cụ Trạng quê hương, người gắn với
Viễn tổ và Thượng tổ dòng họ Lương xã Chiến Thắng huyện An Lão (gốc từ Tiên Lãng sang khoảng năm 1750)
tôi tìm hiểu và biên soạn lại chuyện này.
Cũng là một nén tâm hương dâng lên tiền nhân, lưu giữ lại cho bà
con ai quan tâm thì đọc, tự rèn mình, tìm cách ứng nhân xử thế hợp nhất chứ
không mong trở thành “nhà nghiên cứu”, nhất là “Chiêm tinh gia” chi cả!
-Lương Đức Mến, tháng 11/2013-
[1] là sư phụ của Na Tra 哪吒 ở trên
thượng giới và là người rất nghiêm khắc với các học trò của mình. Một vị tiên
tốt bụng, ông lúc nào cũng luôn theo em gái đồng thời cũng là vợ của Phục
Hi 伏羲 là
Nữ Oa 女娲 có tính tình lôi thôi và rất ít khi cưỡi mây.Mà lúc nào
Thái Ất chân nhân cũng cưỡi chim hạc tiên Tiểu Hắc Bạch (chim hạc), đây cũng là thú cưng của ông.
[2] Có tài liệu
viết 1477-1526, tức cụ mất năm Bính Tuất, 1526 đời Lê Cung Hoàng vào dịp Trần
Cảo đã kéo quân uy hiếp kinh thành.
[3] Con cháu Lương Nhữ Hốt (梁汝笏, ?-1428). Ông người xã Trác Vinh, huyện
Cổ Đằng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, đỗ Thái Học sinh thời nhà Trần. Lương Nhữ Hốt là
tướng nhà Hồ nhưng năm 1406, khi quân Minh kéo sang, theo lời chiêu dụ của
tướng Minh là Hoàng Phúc, ông ra làm việc cho quân Minh và được cử làm tri phủ
Thanh Hoa. Cũng vì vậy, khoảng 1407-1409 ông đến lập ấp tại Triều Hải trang và
đổi tên trang này thành xã Hội Triều. Cuối năm 1427, khi viện binh của Liễu
Thăng và Mộc Thạnh bị đánh tan, Vương Thông buộc phải giảng hoà rút về, Lương
Nhữ Hốt đầu hàng Nghĩa quân Lam Sơn, được Lê Lợi xá tôi. Nhưng sau đó, ông vẫn
không phục, liên kết với những người từng hợp tác với quân Minh trước đây như
Trần Phong, Đỗ Như Trung mưu chống lại nhà Lê. Lê Thái Tổ bèn bắt 3 người cầm đầu
này giết chết vào ngày 24/11/1428, sau đó hạ chiếu tha hết cho các thủ hạ. Để
giữ hòa khí với nhà Minh, vua Lê Thái tổ không tru lục đến thân thích các đầu
lĩnh. Những người con của Lương Nhữ Hốt di cư sang tỉnh Vân Nam còn Lương
Nhữ Hốt được nhà Minh truy phong tước Lãng Lăng Đại Vương.
[4] Giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù
Xuyên ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành
phố Hải Phòng).
[5] Bà
Nhữ Thị Thục (? - ?), con gái út của
quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan (1443-1523)
triều Lê Thánh Tông ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải
Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết,
huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ
nhưng thực ra chỉ cách con sông Hàn (Tuyết
Giang) và ở bên này nhìn rõ cây đa đầu làng bờ bên kia.
[6] Có nhiều tài liệu viết khác nhau về năm
mất của cụ Bảng nhãn. Kết hợp lại có thể nhận xét Cụ thọ hơn 50 tuổi nên mất
Bính Tý 1516 hay Bính Tuất 1526 hoặc khoảng giữa 2 mốc đó.
[7] 梁有慶 (1517 – 1590) là con
Bảng nhãn Lương Đắc Bằng với người “dắng thiếp (媵妾, tức vợ bé và bà này là em
Chính thất Hoàng Thị Phục) sau khi cụ Thượng mất 5 tháng và sau này theo họ
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm 18 tuỏi. Lương Hữu Khánh là bậc Danh thần khai nghiệp
nhà Lê Trung Hưng. Bởi “trong vạch kế, ngoài chống giặc” nên mưu lược, văn
võ của ông được tôn trọng, nhiều lần lập công lớn và được cử làm Thượng thư bộ
Lại 吏部尚書, kiêm Tổng tài Quốc sử Quán 國史館總裁, tước Thái tể 太宰- Đạt quận công 達郡公.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!