Trong
quá trình đi
tìm cội nguồn dòng họ ban đầu tôi tìm được người mang họ Lương xuất hiện đầu
tiên trong sử sách Việt là Lương Long梁龍, người vùng núi Giao Chỉ lãnh đạo dân vùng Hợp Phố 合浦, Giao Chỉ 交趾,…chống lại đầu mục nhà Đông Hán (東漢, 25–220)
là Chu Ngung 朱喁 vào năm
Quang Hòa thứ Nhất (Mậu Ngọ 戊午, 178).
Nhưng khi tiếp tục tìm kiếm, tôi thấy trước thời Lương Long 100 năm đã có một danh gia vọng tộc
名家望族 mang họ Lương ký ngụ Cửu Chân (nay là Thanh Hoá). Hơn nữa đây còn là một
dòng họ lớn, các đời từng giữ chức Phụ chính, con gái được phong Quý nhân, Hoàng
hậu của Hán triều và liên quan nhiều đến sử Việt thủa quốc sơ. Do vậy, dù chưa
rõ kết cục, cứ chép lại đây để nghiên cứu.
1.
Từ một ý trong cổ sử:
Tại
Đệ Thập quyển (bản dịch): Lịch triều ky thần (chép về
những viên quan Trung Quốc bị đày hoặc bỏ trốn sang Việt Nam ký ngụ) trong
An Nam chí lược 安南志略[1]do Lê Tắc 黎崱[2] soạn ở Thế kỷ XIV tại bên Nguyên có một
đoạn như sau:
“Lương Tủng tự là
Kính Thúc, đời vua Minh Đế
năm Vĩnh Bình thứ
4 (61), bị kết án liên lụy
vì việc của
người anh là
Lương Tùng. Nguyên trước đó,
Lương Tùng vì có sự oán hận, làm thư phỉ báng triều đình, Tủng cùng cả
gia quyến và em là Cung đều phải dời qua Cửu Chân, trải khắp Giang, Hồ, Nguyên, Tương, cảm
thương Tử Tư và Khuất Nguyên, không
tội mà phải trầm mình,
làm bài phú điệu
tao. Sau
được vua xuống
chiếu cho về cố
quận. Tủng thường lên nơi cao trông xa mà than thở rằng: “trượng phu ở đời, sống
phải được phong hầu, chết được lập miếu tế tự,
nếu chẳng thế, thà nhàn cư để dưỡng chí, thơ rượu cho vui vầy,
chớ chuốc lấy công việc châu quận làm chi, cho nhọc người vô ích”. Sau luôn
luôn có chỉ triệu của nhà vua,
nhưng nhất định không đến.”
Vùng
Thanh Hoá nay có rất nhiều người mang họ Lương và là trung tâm, nơi khởi phát của
nhiều dòng họ Lương Việt Nam .
Tôi nẩy ra ý định tìm hiểu về thân thế, hậu duệ của Lương Tủng hầu tìm ra lời
giải đáp nào chăng.
2.
Gia thế của Lương Tủng:
Tìm
trong tư liệu Hán tự 漢字 biết được Lương Tủng thuộc dòng
dõi quan Đại phu nước Tấn 晉国大夫 là Lương
Ích Nhĩ 梁益耳. Lương Tủng
là con của Lăng hương Hầu 陵乡侯 Lương Thống 梁統, cháu Lương Luyên 梁延, chắt Lương Phổ 梁溥, chút Lương Kiều 梁桥 và chít của Lương Tử Đô 梁子都, một danh gia vọng tộc vùng An Định 安定 (nay
là Bình Lương 平涼, Cam Túc 甘肅).
Lương Thống 梁統 tự Trọng Ninh 仲寧, có bản tính cương nghị, ham thích tìm
hiểu pháp luật. Năm Canh Thủy thứ 2 (更始二年, 24) được bổ làm
Trung lang tướng 中郎將, Sử an tập
châu Lương 涼州 thời Nhũ Tử
Anh (孺子嬰, 5 – 25).
Cuối thời Vương Mãng (王莽, 45 tCn-23) của nhà
Tân 新朝, cùng với
Đại tướng quân 大將軍 Hà Tây 河西 là Thôi Đậu Dung 推竇融, Lương Thống khi đó đang là Thái thú Vũ
Uy 武威 (nay thuộc Cam
Túc) nổi lên cát cứ vùng Tây Bắc 西北.
Sau
khi nhà Đông Hán (東熯, 23-220) tái lập, vào năm Kiến Vũ thứ 5 (建武五年, 29) 2 ông quy thuận Lưu Tú (劉秀, 6
tCn – 57) và Lương Thống được phong Thành nghĩa Hầu 成义侯. 7 năm sau ông đến Lạc Dương 洛阳và được phong Cao Sơn Hầu 高山侯, lĩnh Thái trung Đại phu 太中大夫. Cuối đời là Thái thú Cửu Giang 九江được phong Lăng hương Hầu 陵乡侯
và mất ở đó.
Ông
được 3 người con trai là Lương Tùng (梁松, ?~61), Lương
Tủng (梁竦, - 83) và Lương Cung 梁恭.
Trong đó, con
trưởng Lương Tùng (梁松, ?~61), tự Bá Tôn 伯孙 là Phò mã của Hán Quang Vũ đế (漢光武帝, 25-
57).
Thep
phép thế tập 世襲, Lương Tùng
được nối tước hầu 襲侯 của cha.
Ông thông hiểu kinh thư 經書, được thăng Hổ bí lang tướng 虎贲郎将. Lúc Mã Viện (馬援, 14
tCn-49)[3] lâm bệnh,
Lương Tùng có ý tiến thân cầu cạnh, Mã Viện lơ đi làm ông bất mãn. Khi Vũ đế
băng ông nhận di chiếu 遗诏 lãnh chức Phụ chính 辅政đã cùng với phó tướng của Mã Viện là Cảnh Thư 耿舒 tạo ra nhiều chứng cứ để chống lại Mã Viện.
Đến thời Hán Minh đế (漢明帝, 57-75), Lương Tùng,
khi đó đang giữ chức Thái phó 太傅, bị tố là gian lận trong việc tiến cử bị biếm chức sau thêm thư
nặc danh nên bị hạ ngục và chết trong tù. Sự kiện này làm các em ông cũng bị
liên luỵ, phiêu tán.
3.
Về nhân vật Lương Tủng:
Lương
Tủng (梁竦, - 83) là con thứ của Lương Thống, tự là
Kính Thúc 步敬. Thời nhỏ
ham học nên thông Kinh dịch 易经, gia đình mong khi trưởng thành sẽ được giao chức. Nhưng gặp khi anh là
Lương Tùng phạm pháp nên Lương Tủng phải đem em là Lương Cung 梁恭 và gia quyến đi lánh nạn xuống Cửu Chân 九真[4] . Trên đường xuống phía Nam gia đình ông từng qua Trường Giang 长江, Động Đình hồ 洞庭湖, rồi Tương Giang 湘江, Nguyên Giang 沅江.
Về sau Hán Minh đế (漢明帝, 57-75)
hạ chiếu tha, cho phép Lương gia hồi hương. Trở về cố quận ông đóng cửa đọc và
viết sách, trở thành một tác gia nổi tiếng.
Sang
thời Hán Chương Đế (漢章帝, 58 – 88) con gái Lương Tủng nhập cung được
phong Lương Quý nhân 梁贵人, tức Cung hoài Hoàng hậu (恭怀皇后梁贵人, 61-83)
sau này[5].
Vào năm Kiến sơ Tứ niên (建初四年, 79) Quý nhân sinh
Lưu Triệu (劉肇, 79 – 105), nhưng Đậu Hoàng hậu 窦皇后nhận là con. Nhằm diệt vây cánh ngoại tộc
của Lương Quý nhân, năm Kiến sơ bát niên (建初八年, 83) Đậu Hoàng hậu lập thư nặc danh hãm
hại tố Lương Tủng mưu phản khiến ông nhập ngục và do Thái thú Hán Dương 漢陽太守thẩm vấn và ông đã chết trong ngục. Lương
Quý Nhân cũng bị thiệt mạng. Sau này khi
Lưu Triệu 劉肇lên ngôi,
tức Hán Hòa Đế (漢和帝, 88-105), dẹp trừ vây cánh họ Đậu và đến
năm Vĩnh Nguyên cửu niên (永元九年, 97) khi Đậu Thái hậu
窦太后 mất Lương Tủng được truy phục tang chế,
truy phong là Bao thân mẫn Hầu 褒亲愍侯.
4.
Vài nét về hậu thế của Lương Tủng:
Khi
Lương gia được minh oan, các con trai của Lương Tủng là Lương Đường 梁棠, Lương Ung 梁雍, Lương Địch 梁翟 đều được phong Hầu thứ tự là: Nhạc bình Hầu
乐平侯, Thừa thị Hầu 乘氏侯, Đan phụ Hầu 单父侯.
Sau
này, chắt Lương Tủng (con của Thừa thị
trung Hầu Lương Thương 乘氏忠侯梁商, ?~141) có 2 người được phong Hoàng hậu là Lương
Nan 梁妠Thuận liệt
Hoàng hậu 顺烈皇后 và Lương
Nữ Oánh 梁女莹Ý hiến
Hoàng hậu 懿献皇后. Vì vậy
Lương Thương từ tước vị tập ấm 襲蔭là Thừa thị Hầu được thăng Thị trung 侍中 rồi Chấp kim ngô 执金吾 đến Đại tướng quân 大将军.
5.
Điều còn đọng lại:
Theo Phả đồ 世系图 đại gia đình
Lương Thống 梁統 thì Lương
Tủng còn một người em nữa là Lương Cung 梁恭 cùng lánh sang Cửu Chân với ông sau khi
anh cả Lương Tùng bị nạn năm 61 và người con út là Lương Yên 梁嫕 (chưa rõ sinh ra hồi gia đình còn ở Bắc quốc hay sinh ra tại Cửu Chân?). Nhưng trong các tài liệu tôi tìm hiểu
về Lương Tủng không thấy nhắc đến 2 người này.
Cửu
Chân hồi đó do sự cai quản bớt hà khắc lại khuyến khích dân làm ăn của các Thái
thú Nhâm Diên, Lý Thiện[6]
nên người dân thuần phác, mến khách, đất đai rộng, dễ kiếm sống. Do vậy, có thể nghĩ đến việc em và một
người con Lương Tủng đã ở lại, thành người Việt và sinh ra dòng họ Lương nơi đây?
-Lương Đức Mến,
Song Thập năm Quý Tị-
[1] Có nghĩa: "Lược ghi về An Nam", là một bộ sách
sử viết bằng văn xuôi chữ Hán (nguyên bản
có 20 quyển, nhưng hiện tại chỉ còn 19 quyển) do Lê Tắc (? - ?) biên soạn
khi sống lưu vong tại Trung Quốc ở khoảng nửa đầu thế kỷ 14. Nội dung sách ghi
chép hỗn hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa, v.v...An Nam từ ban đầu đến cuối đời Trần. Có lẽ đây là một
công trình khảo cứu về Việt Nam lâu đời nhất còn lại, do một người Việt viết, có
nhiều tư liệu quý song nhiều chỗ mang nặng tư tưởng cầu thân với “thiên triều”.
[2] Vốn họ Nguyễn sau đổi thành họ Lê do làm con nuôi của người
cậu tên là Lê Bổng thành ra Lê Tắc, tự là Cảnh Cao 景高, hiệu là
Đông Sơn 東山; người huyện Đông Sơn, Ái Châu (nay thuộc Thanh Hóa) là một sử gia người Việt, chức Thị lang. Sau ông
qua giúp việc dưới trướng của Chương Hiến hầu Trần Kiện (con thứ của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, và là cháu nội vua Trần
Thái Tông), rồi theo vị quan này vào trấn giữ Nghệ An.
Đầu năm Ất Dậu
1285, khi quân Nguyên tiến đánh Đại Việt lần thứ hai có đạo quân thứ 3 do tướng
Toa Đô chỉ huy đang ở Chiêm Thành tiến đánh lên. Khi đó, Hưng Đạo Vương bàn với
Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải ra quân chặn đánh ở Nghệ An. Tháng 2 (âm lịch)
năm ấy, Trần Kiện và liêu thuộc (trong số
đó có Lê Trắc) đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên đã sang Trung Quốc sống. Tại
đây, Lê Tắc được nhà Nguyên phong Tòng thị lang, lãnh chức Chỉ huyện Lệnh doãn
được cấp hàm Phụng Sự lang, lĩnh hư chức đồng Tri châu An Tiêm rồi được bổ làm Phụng nghị đại phu ở đất Hán
Dương (nay là các quận Hán Dương và Thái
Điện, địa cấp thị Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc).
Ông soạn An Nam
chí lược trong thời gian lưu vong, làm quan xứ người nên có nhiều câu, đoạn xu
nịnh Nguyên Mông.
[3] Một trong những vị tướng nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc,
giúp Hán Quang Vũ Đế thống nhất Trung nguyên sau “loạn Vương Mãng”. Một trong
những chiến tích lớn nhất của ông là việc chinh phạt Giao Chỉ khi dập tắt cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 43. Vì vậy, trong chính sử Việt Nam ,
ông là kẻ xâm lược bạo tàn, dựng lên cột đồng khắc sáu chữ: “銅柱折交趾滅 (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt)”, tức “Cột
đồng gãy, Giao Chỉ không còn”. Nhờ thành tích thu phục Giao Chỉ, ông được phong
là "Phục Ba tướng quân" 伏波將軍.
[4] Là 1 trong 15 bộ của Văn Lang 文郎thời các
Vua Hùng 鴻龐氏và trở thành “Quận” vào năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (元鼎六年, 111 tCn) sau
khi nhà Hán chiếm toàn bộ Nam Việt và đặt thuộc Giao Châu. Nó là vùng đất bao gồm:
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và một phần Ninh Bình ngày nay và lúc đầu Cửu Chân
gồm 7 huyện: Tư Phố 胥浦 (thời Vương Mãng gọi là Hoan Thành 驩成), Cư Phong
居風, Đô Lung 都龐, Dư Phát 餘發, Hàm Hoan 咸驩, Vô Thiết 無切, Vô Biên 無編.
[5] Có chỗ nói Quý nhân và Hoàng hậu là 2 chị em.
[6] Thời Vương Mãng các quận ở xa đều tự giữ lấy. Sang Đông
Hán, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân có nhiều cải cách tiên bộ. Hán Minh đế thấy
Lý Thiện cai trị có hiệu quả tại Nhật Nam đã chuyển sang làm Thái thú Cửu
Chân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!