[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


21 tháng 12 2012

Xác định ngày BỎ LINH VỊ, XẢ TANG

Bức Tiên bàn do LĐM thiết kế
Hôm giỗ bà Nội tôi, có cháu hỏi: bạn cháu có bố mới mất, nhà ở phố chật nên cháu muốn rước ảnh bố cháu lên ban thờ chung, mà không muốn để ở bàn riêng ảnh hưởng đến việc sinh hoạt, làm ăn nhưng chưa biết chọn ngày nào, tiến hành ra sao. Tôi đã giảng giải để cháu về “tham mưu” cho bạn.
Một sự tình cờ sau ngày giỗ Nội tổ tỷ lại đúng vào ngày mà thiên hạ đang nhao nhao lên vì cái gọi là ngày Tận thế (H: 盡世, A: The end of world, P: La fin du monde) chợt nghĩ: “ngày Tận thế” mà bàn về “xả tang” là hợp nên mở máy chép lại suy nghĩ, hiểu biết của mình để nhớ.
Người Việt coi trọng việc kỉ niệm ngày mất, nhất là cúng cha mẹ. Theo “Thọ mai gia lễ”, thì cứ đúng ngày quy định trong mà làm, không có sự chuyển dịch tuỳ tiện theo lời thầy lễ hay thầy bói nào cả.
1. Thông thường người thân sau khi mất được con cháu rước vong về gia đình tiến hành các lễ: Lễ ba ngày (三虞, lễ tế ngu); Lễ cúng cơm (朝夕面,trong vòng 100 ngày); Cúng tuần (旬祭, thực hiện vào các ngày thứ 7, 14, 21, 28, 35, 42 sau mất); Lễ chung thất (終七, ngày thứ 49 sau mất); Lễ tốt khốc (卒哭, 100 ngày sau mất nghĩa là thôi khóc); Tiểu tường (小祥, giỗ đầu); Đại tường (大祥, giỗ hết); Trừ phục (除服, bỏ tang); Cải táng (改葬, bốc mộ); Kị nhật (忌日, giỗ từ năm thứ 3 trở đi, còn gọi là Chính kị). 
2. Trong các Lễ, công việc trên thì trừ ngày làm lễ An táng và ngày làm lễ Trừ phục, Cải táng cần chọn ngày lành còn Lễ chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Ðại tường, Kị nhật cứ theo đúng ngày tính toán theo lịch âm mà làm. Khi đó con cháu ở xa nhớ ngày về làm lễ, thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới dự. Lưu ý tang tế theo ngày định sẵn nên thân bằng, cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng, không đợi mời như lễ mừng, lễ cưới không chuỵện “Hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo” (有請有來無請不到,mời thì đến, không thì thôi) được. Ngoài ra, con thứ, con gái, cháu phải đến từ ngày hôm trước để “góp giỗ” trong buổi Tiên thường (先嘗, ngay trước hôm Chính kị, gọi là “giỗ nếm”).
3. Con cái để tang cha mẹ là Đại tang 大喪 phải 3 năm bởi như Đức Khổng Tử từng nói: 子生三年, 然後免于父母之懷, 夫三年之喪, 天下之達喪也 (“Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn vu phụ mẫu chi hoài, phù tam niên chi táng, thiên hạ chi đạt táng dã”), tức là con người khi sinh ra phải ba năm sau mới rời khỏi vòng tay bế ẵm của cha mẹ cho nên khi cha mẹ mất đi con cái phải báo đáp cái ân huệ vất vả của cha mẹ bằng việc để tang trong ba năm, đấy là lễ thông thường của mọi người trong thiên hạ. Nhưng còn bao việc chờ con cái nên việc đặt bàn vong thờ người mới mất, việc để tang không thể kéo dài mãi, nhưng cũng không thể tùy tiện mà phải làm Lễ, chọn ngày.
Theo truyền thống, 2 tháng sau ngày giỗ hết (chữ là Đại tường, giỗ lần thứ 2), tìm ngày Trực trừ 法除 thực hiện lễ trừ phục hay bỏ tang. Đây là Lễ ngược với Lễ thành phục (成服, tức lễ phát tang cho con cháu mặc đồ tang để cúng tế và đáp lễ khi khách đến viếng) khi người thân vừa mất. Như vậy, tuy trong năm hạng tang phục quy định gọi là đại tang 3 năm thực ra chỉ 27 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai 余哀).
4. Ngày trực trừ được tính theo Phép ghi 12 chỉ trực 十二 建除法 (theo vòng: Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thu, Khai, Bế) mà hiện nay cuốn lịch nào cũng ghi rõ. Nếu lịch không ghi có thể nhẩm thế này: theo thứ tự từ tháng Giêng, tháng  Hai…đến tháng Một, tháng Chạp âm lịch thì ngày Trực trừ theo thứ tự tương ứng là vào các ngày: Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu, Dần đầu tháng (hết vòng quay lại).
Trước kia (ngay bây giờ một vài nơi vẫn dùng) ở bàn Vong (dùng thắp hương, cúng cơm trong những tuần lễ đầu) có treo bức vải trắng lớn, viết chữ đen với hàng trên là 4 chữ lớn: 表致其哀 (Biểu trí kỳ ai), hàng dưới ở giữa là chữ cực lớn   (Điện, nghĩa là: định yên, tiến cúng) , hai bên là đôi câu đối:
Bên phải: 守孝不知红日落 (Thủ hiếu bất tri hồng nhật lạc);
Hàng bên trái: 思亲常望白鹤飞 (Tư thân thường vọng bạch hạc phi).
Do vậy việc đưa bát hương, bài vị người mới mất lên bàn thờ Gia tiên chung được tiến hành sau Lễ Chung thất (có nhà làm sau Bách nhật). Nhưng nếu giữa khoảng 49 ngày gặp Tết Nguyên đán thì nên thực hiện nghi lễ này trước ngày 23 tháng Chạp để trong những ngày Năm mới không có không khí tang tóc nơi phòng khách.
Việc này cũng cần chọn ngày và việc đó được tính theo tháng âm lịch: nếu là tháng đủ khởi đầu ngày Mồng Một ở “Phụ” ngược chiều kim đồng hồ còn tháng thiếu ở ô “Mẫu”, thuận chiều kim đồng hồ theo bảng sau khi gặp ô có chữ “VONG” ứng với ngày chuyển được.
BẢNG TÍNH NGÀY BỎ BÀN VONG
VONG
Nam
VONG
< Phụ
VONG
Tôn
- Đủ khởi từ “Phụ”, ngược chiều kim đồng hồ.
- Thiếu từ “Mẫu”, thuận chiều kim đồng hồ.
Nữ
VONG
VONG
Mẫu ^
Khách
VONG
Nữ
VONG
Nữ phu
VONG
5. Lễ Trừ phục gồm 3 lễ nhỏ:
5.1. Lễ sửa mộ: Ðắp sửa mộ thành mộ tròn, thực tế nhiều nơi nay đã bỏ.
5.2. Lễ đàm tế 談祭: Cất khăn tang. Huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính. Bỏ bàn thờ tang. Thu cất các bức trướng, câu đối viếng. Từ đó mọi hoạt động gia đình trở lại bình thường (cưới xin, đi dự các cuộc vui..).
5.3. Lễ rước linh vị (H:簰位, A: The tablet of the deceased, P: La tablette du défunt) vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, phủ giấy hay vải đỏ, khi đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới theo nguyên tắc “Chiêu mục” 昭穆 法制. Trường hợp nhà con thứ không thờ gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để nguyên bàn thờ như cũ, không phải chuyển bàn thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ ở nhà thờ tổ. Có gia đình tiến hành nghi thức này sau cát táng hoặc tùy theo bàn bạc thống nhất giữa các thành viên trong gia tang.
Trên đây là lời bàn của tôi từ những điều thu lượm qua sách vở và thực tế gia tộc. Để tăng độ “ám thị” tốt nhất khi đông anh em nên nhờ một người đang hành nghề có uy tín ở địa phương để “xin ngày”. Nhưng cốt nhất ở cái Tâm, bởi “Linh tại ngã, bất linh tại ngã” 靈在我不靈在我 hiểu nôm na là “linh thiêng là do mình mà không linh thiêng cũng do mình” mà!
-Lương Đức Mến, ngày cuối năm 2012-

2 nhận xét:

  1. Mặc mọi người lo ngày Tận thế
    Ta lo sao Tận hưởng Thế gian này
    Trên bàn phím ta ngao du sơn thủy
    Thả hồn vào hoa, lá, cỏ, cây

    Mỗi ngày ta sống lãi một ngày
    không lo âu, thù hận bỏ lại sau
    Tăng tình bạn, thêm tình Lương tộc
    Cuộc đời này, còn mãi bền lâu

    Trả lờiXóa
  2. Có nơi thay: “表致其哀” (Biểu trí kỳ ai) bằng “喪致其哀”: Tang trí kỳ ai, nghĩa là: Tang gây ra nỗi đau khôn cùng

    Trả lờiXóa

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!