KẾT
“ĐI TÌM NGUỒN CỘI”
đã soạn xong:
Chắp nối Chi Cành, vấn Tổ Tông.
Kỷ Sửu[1] khởi biên từ tay trắng,
Nhâm Thìn[2] hoàn sửa toại ước mong.
Nay ngẫm vẫn còn bao
khoảng trống,
Thêm nhiều bổ trợ
mới thành công.
Tri ân Tiên Tổ dầy Phúc ấm,
Cảm tạ gần xa góp Tâm hồng.
-*-
TỰA
Giở xem lúc rảnh tay, Mê say nếu đọc kỹ;
Suy
nghĩ khi tỉnh táo, Thấu đáo nhiều điều hay.
Dãi
bày niềm trăn trở, Phù trợ lúc ngậm ngùi;
Chia
vui ngày thành đạt, Gieo hạt theo tiền
nhân.
Chuyên
cần lo việc Họ, Tỏ rõ NGƯỜI CÓ TÂM.
Thời gian đưa
chúng ta ngày càng xa Tổ tiên, xa điểm khởi thủy trong khi việc biên chép bằng
chữ, ghi âm, chụp ảnh hay ghi hình thủa trước là ít và không có hoặc đã thất
lạc. Do vậy ký ức, hiểu biết về tiền nhân, quá khứ với chúng ta càng ngày càng mờ
nhạt, thậm chí quên lãng hoặc sai lệch. Người có Hiếu, có Tâm đều biết “thận
chung truy viễn” 慎終追遠 và đau đáu một
nỗi niềm:
Ai người dẫn nhập khai cơ ?,
Từ đâu đưa đến
?, bao giờ ?, tại sao ?
Khơi dòng, mở
đất thế nào?
Nên chi, nên
phái công lao ai bì!
Họ nào cũng vậy, từ đất Tổ, ngoài một số quần
cư tại nơi “cắt rốn, chôn rau” 割𦠆墫胞, nhiều người, nhiều hộ chuyển đi nơi khác hình
thành các chi phái theo dọc chiều dài lịch sử, tỏa ra nhiều nơi theo chiều
ngang không gian lại thêm việc “mai danh ẩn tích” 埋名隱昔 bởi nhiều lý
do nên việc tìm về nguồn cội, truy nhận thủy tổ, viễn tổ; việc kết nối dòng họ
hết sức khó khăn.
Sinh thời, phụ
thân tôi kể: “Các cụ xưa truyền rằng:
dòng họ ta vốn là con cháu Cụ Thượng Lương Đắc Bằng từ xứ Thanh ra. Nhưng vì sợ
họa truy diệt trong buổi nhiễu loạn nên chỉ truyền miệng mà không ghi chép lại!”.
Khi trưởng thành tôi từng tự đặt câu hỏi: quê tôi ở xã Chiến Thắng, huyện An
Lão, thành phố Hải Phòng sao không phải khởi nguồn từ các bậc tiên liệt họ
Lương quanh vùng như: Lương Nhữ Học[3] ở Hải Dương, Lương Thế
Vinh[4] ở Nam Định mà lại có cội
nguồn từ họ Lương tận Thanh Hóa? Liệu các Cụ có “tam sao thất bản” không? Đem
câu này hỏi nhiều người, lục tìm nhiều tư liệu mãi chưa tìm được lời giải đáp.
Muốn làm được việc đó phải được tiếp
xúc với Gia phả các Chi, Phái; biết được về nhân vật, thời gian và không gian,
tức là nắm chắc môn Lịch sử, Địa-Lịch sử... Song địa danh, địa giới ở ta luôn
thay đổi; các sự kiện ghi chép rời rạc, tản mát, đôi khi mâu thuẫn nhau; chiến
tranh liên miên nên tư liệu thất tán nhiều. Trong khi đó, họ Lương Chiến Thắng
nhà ta không phải thuộc dòng “Cao môn lệnh tộc” 高門令族 nên chính sử đâu nhắc đến và Gia phả 家譜 chắc cũng chưa được mấy quan
tâm. Hoặc có thì đã mất (do Thủy 水,
Hỏa 火, Đạo 盜, Tặc 賊, bởi nguyên
nhân từ chính bản thân nội tộc) hay thiếu hoàn chỉnh. Trong đó người
sao chép, người phiên âm, người dịch phần Gia phả còn lại hiện nay theo nhiều
mốc thời gian, bằng nhiều cách với những trình độ, nhận thức khác nhau nên khi
đọc rất khó hình dung. Tiếc rằng, bản thân tôi không được học môn Địa - Lịch
sử; lơ mơ về Hán Nôm lại xa quê gần 50 năm, từ lúc 9 tuổi; cha thì đã mất hơn
10 năm, anh em chẳng ai biết gì hơn nên càng muốn tìm hiểu về cội nguồn càng
thấy khó. Nhưng chẳng lẽ đời nào, ai cũng bó tay, rồi để như cổ nhân từng nói “駒光過隙” (“Câu quang quá khích”), mỗi ngày mỗi xa[5] đành chấp nhận để lại cho
thế hệ sau những “khoảng trắng” ngày một loang rộng. Dù sao, bên cạnh niềm đam
mê và tâm huyết thì so với trong họ tôi là người được học hành khá cơ bản, đi
lại nhiều, có mối quan hệ rộng lại có quỹ thời gian, điều kiện kỹ thuật công
nghệ hơn một số thành viên khác. Lại được vợ con, anh em, bạn bè động viên
khuyến khích và ủng hộ. Thế là tôi quyết tâm giành thời gian, công sức tìm
hiểu.
Tới khi gặp gỡ với các vị trong Ban Liên lạc
họ Lương Việt Nam, nhất là khi được các bậc cao niên, đồng niên tin tưởng gửi,
cung cấp nhiều thông tin, nhiều bản Gia phả họ Lương ở các miền trong đó có họ
Lương Cao Hương, họ Lường Phủ
làng Hội Triều, họ
Lương làng Luật Ngoại, họ Lương ở Tiên Lãng và họ Lương Vinh Quang...tôi được tiếp xúc nhiều thông tin. Nghiên
cứu kỹ thấy bên cạnh những truyền ngôn đầy tính “cương” cần được giải mã, tước
bỏ những phần rõ là thêm thắt thì có nhiều tư liệu và lời bàn đầy tính lịch sử,
logic mà phối kiểm với các tài liệu khác có thể lần tìm được cội nguồn của
dòng, phái nhà tôi. Đặc biệt là những thông tin về những nấc họ gốc mà
theo truyền ngôn là đã phân nhánh ra dòng họ Lương nhà tôi ở xã Chiến Thắng,
huyện An Lão, thành phố Hải Phòng.
Sự thật chỉ có một nhưng sự kiện bao
giờ cũng đi trước, đôi khi rất xa việc chép Sử 歷史, chép Phả 家譜 nên đòi hỏi
đúng như nó đã diễn ra là rất khó! Tôi cố gắng tìm, chắt lọc tư liệu trong các
trang sách, tạp chí, báo, các trang mạng ...ở tủ sách gia đình hay đã tải về
máy cùng một số sách, tạp chí về lịch sử, địa lý…ở Thư viện; tìm gặp những
người nắm được thông tin, cùng sở nguyện…để hiểu, hình dung lại gần sự thực
nhất chặng đường tổ tiên tôi từ Thanh Hóa ra Tiên Lãng, rồi sang Cao Mật và
tiếp tỏa đi nơi khác cùng những kiến giải của mình về chặng đường đó.
Mỗi nội dung sẽ gồm: Địa dư chí 地輿誌
vùng
đất liên quan; Lời truyền trong Gia tộc; Tóm lược nội dung có trong các Gia
phả; Phân tích dưới góc nhìn lịch sử; Bàn luận…Đồng thời xen kẽ có soạn một số
vấn đề về lịch sử, nhân vật chí 人物誌 cùng những nội dung gần như “Tiểu Từ điển Việc họ”
có liên
quan mà bản thân hiểu, tích cóp được. Những chi tiết đó khi soạn được tương đối
hoàn chỉnh tôi sẽ gửi cho các vị Trưởng họ liên quan mà tôi biết địa chỉ đồng
thời lần lượt đưa lên Blog dòng họ thành 3 phần lớn với nhiều bài khác nhau.
Trong đó:
Mở
đầu là dẫn luận và bổ túc kiến thức về địa dư chí, về họ và họ
Lương…
Phần Nội dung gồm 5 mục:
Mục 1 là thuật việc
anh em họ Lương từ Chiết Giang sang Việt
cư ngụ ở Cao Hương và ở Hội Triều hồi Thế kỷ XIII cùng bối cảnh lịch sử thời
gian đó.
Mục 2 tìm hiểu về Thủy tổ Lương Đắc Bằng và con cháu.
Mục 3 tìm hiểu nhánh từ Hội Triều ra Tiên Lãng tránh họa hồi
Thế kỷ XVI và sự phát triển dòng họ Lương ở Tiên Lãng trong những thế kỷ sau đó.
Mục 4 tìm hiểu việc từ
Tiên Lãng một phân nhánh sang An Lão kiếm kế sinh nhai hồi Thế kỷ XVIII; Phác
thảo sự phát triển chung của dòng họ Lương gốc Cao Mật (nay là xã Chiến Thắng,
huyện An Lão, thành phố Hải Phòng).
Mục 5 vài lời kiểm
ngẫm, nhắn gửi quan viên họ, cháu con và người quan tâm.
Cuối là Phụ lục gồm một số bài về Việc họ, văn Cúng, Khấn, bài Thơ....
Như vậy, chuyên khảo này sẽ khá dài,
cần phải đầu tư nhiều công sức, cần nhiều tư liệu; ý kiến thảo luận, phản hồi
từ nhiều người, ở nhiều chi phái, nhiều nơi trong và ngoài họ. Nhằm dùng riêng
cho bản thân và gia tộc, không phải là “công trình nghiên cứu khoa học” theo
đơn đặt hàng, để lấy tiếng hay nhằm tư lợi gì nên không ghi chú nguồn tham khảo
cụ thể theo đúng chế độ “bản quyền” theo Công ước Bơn (Berne Convention, 伯尔尼公约) về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ký tại Bern (Thụy Sĩ) năm 1886. Những chữ nước ngoài
(nhiều nhất là Hán tự) tôi copy rồi
paste vào hoặc gõ trực tiếp để nhớ, tiện tra cứu (chứ không phải vì “sính ngoại”) và không ảnh hưởng đến nội dung với
người xem không biết ngoại ngữ. Mốc thời gian nếu xẩy ra trước Công nguyên tôi
viết tắt là tCn (公元前), còn từ năm Đức Chúa Giê Su (Jésus Christ, 耶蘇) giáng sinh không ghi thêm sCn
như nhiều người.
Trong dịp Giỗ Tổ Nhâm Thìn 2012 đã in
dự thảo, trình trước Nhà Tổ ở quê và gửi đại diện các chi, một vài người quan
tâm đọc. Sau đó, nhận được nhiều ý kiến phản hồi và thu thập thêm nhiều thông
tin mới và tôi đã chắt lọc, sữa chữa, bổ sung thêm đề mục, tư liệu, chi tiết;
sắp xếp lại bố cục thành cuốn chuyên khảo này.
Rất mong được Quan viên họ và những ai
quan tâm hưởng ứng, suy ngẫm, phản biện và bổ sung, góp ý, chỉnh sửa hay cung
cấp tư liệu để giúp tôi hoàn thành tâm nguyện của mình cũng như thực hiện được
di huấn của phụ thân.
Cổ nhân đã
dạy: 书田无税子孙耕,笔树有花兄弟乐 (“Bút
thành cây dễ trổ ra hoa mặc sức anh em vui thú; Sách là ruộng không
cần nạp thuế tha hồ con cháu cấy cày”) nên tôi rất ý thức được trách nhiệm khi soạn, để lại chuyên khảo
này cho con cháu mình. Nhưng nếu ai hoặc gia đình nào tìm thấy bóng dáng, tư
liệu trong chuyên khảo mà sử dụng để viết Lịch sử, Hương
ứơc của thôn, xã; soạn ra Gia phả, Tộc ước, trong công việc
thường nhật của gia đình, của họ mình hay làm tư
liệu tham gia các cuộc thi tìm hiểu lịch sử quê hương, giáo dục con
cháu... tôi lấy làm vinh hạnh, sẵn lòng trao đổi và coi đó là nén tâm
nhang tri ân Tiên tổ và những người đi trước đã để lại tư liệu để tôi tham
khảo, chắt lọc, chép lại.
Mặt khác, đây
là chuyên khảo về “việc họ” 族事 nên dù rất có
ý thức chính trị trong thời điểm “nhậy cảm”, công tác ở ngành “nhậy cảm”, vùng
“nhậy cảm” nhưng tôi không lồng vấn đề “chính trị” vào đây, chỉ đơn thuần tìm
về cội nguồn. Đồng thời, theo phương châm không “bôi hồng” cũng chẳng “bới lông
tìm vết” nên tôi biên soạn khá trung thực, kể cả những chiêm ngẫm ở phần 5
nhưng nếu ai phát hiện có chi tiết nào sai, thậm chí ảnh hưởng đến gia đình, chi
phái, cơ quan, địa phương nào thì đó là do các tư liệu chưa được thu thập đủ,
chưa xác kiểm; do hạn chế của người soạn, chứ không có ý “bới móc” gì và sẵn
sàng sửa chữa, bổ sung.
Tất cả xin
được thông cảm và lượng thứ và chia sẻ.
Khởi bài: Cận ngày Giỗ bà Nội, tháng
Tân Hợi 辛亥,
năm Nhâm Thìn壬辰,
Sửa: ngày
“Tam trùng” cuối cùng của thế kỷ XXI, 12/12/2012,
Hoàn:
ngày “đầy tuổi tôi” của ngoại tôn, 15/12/2012.
[1] Năm 2009
[2] Năm 2012.
[3] Thám hoa 梁汝鵠 (tự: Tường Phủ, hiệu: Hồng Châu; 1420 - 1501),
từng giữ chức Thị lang, Trung thư lệnh và Đô ngự sử đời Lê Thái Tôn. Ông còn là
nhà văn, ông tổ nghề khắc ván in Việt Nam. Người huyện Trường Tân, trấn
Hải Dương (nay là xã Tân Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương)
[4] Trạng nguyên 梁世榮 (tự Cảnh Nghị hiệu: Thuỵ Hiên; 1440 - ?), nhà thơ, nhà văn hoá
Việt Nam.
Người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam Hạ (nay
là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) nổi tiếng thần đồng, từng
giữ các chức:
Trực học sĩ viện Hàn lâm, Thị thư, Chưởng viện sự, là sái phu trong Hội Tao đàn, là tác giả của nhiều sách về tôn giáo, nghệ thuật, toán
học..
[5]
Con trai tôi bảo câu đó tương tự như câu Anh ngữ: “time
as the ball through the window” và con gái tôi thêm rằng nó giống như người
Việt ta bảo: “thời gian như bóng câu qua cửa sổ” và đã thành thơ là: “Thời
giờ thấm thoắt thoi đưa -Nó đi đi mãi chẳng chờ đợi ai!”.
Thân gửi anh Lương Đức Mến
Trả lờiXóaNhân dịp lễ Nô en và tết Dương Lịch 2013, tôi gửi đến anh và gia
đình lời chúc một năm mới an khang thịnh vượng.
Tôi đã đọc những dòng đầu tiên anh viết về họ Lương Đức - Tiên Lãng- Hải Phòng. Thật là cảm phục tấm lòng nhiệt thành của tác giả, giữa
một thời buổi " Thượng hạ giao chinh lợi" mà có một người làm việc họ
với tất cả tấm lòng, thật là ít có.
Tiếc rằng trí lực của tôi hạn chế, không thể giúp anh trong " sự nghiệp" này, chỉ xin góp vài ý nhỏ như sau:
1, Nên bám sát chủ đề, không viết quá rộng, (một số mục nên đưa vào phụ lục).
2,Cố gắng sưu tầm và sao chép tất cả tư liệu, kèm theo nhận xét của tác giả
3, khối lượng chỉ nên từ 50 đến dưới 100 trang đánh máy khổ A 4. Vì
nếu viết dài sẽ rất tốn kinh phí in ấn, và cũng không ai đủ kiên nhẫn
để đọc, Trong khi độc giả sẽ là những người ít tiền, lười đọc, và ít
hiểu biết về lĩnh vực này.
Khi nào nhận được bản thảo, tôi sẽ góp ý cụ thể hơn.
thư gửi từ Hoàng Đình Khảm - cháu ngoại đời thứ 18 của Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng.