Trong đời người,
ai cũng từng dính đến “Mụ”: nào “mụ đỡ”, “cúng mụ”, “tuổi mụ”. Nhưng xem ra hầu
hết chưa mấy tận tường. Sau đây là ý hiểu và cách tiến hành của người chủ trang
này.
1. Tìm hiểu từ nguyên:
“Mụ”
là từ Nôm, mượn chữ “mỗ” 姥 cũng có âm là “mụ”
trong Hán tự để ký âm. Với chức năng Danh từ chỉ người, trong tiếng Việt nó có
các nghĩa như sau:
- Từ chỉ hàng
cháu trai cháu gái của vua trong triều đình nhà Nguyễn.
- Người đàn bà đã
có tuổi. Ví dụ trong Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du có câu: 樓 𩇢𣎏姥綉婆 (Lầu xanh có mụ Tú
bà).
- Nữ thần 神女 hay Tiên nương 仙孃 đã nặn ra hình đứa trẻ và trông nom nó.
- Tuổi tính theo
âm lịch. Cổ nhân tính tuổi một người là tính từ khi thụ thai (9 tháng 10 ngày). Do vậy tuổi mụ, hay
tuổi ta được tính: năm DL hiện tại - năm sinh theo DL + 1. Cũng vì vậy nên
trong dân gian có tục “Cúng mụ”.
- Người đàn bà
chuyên đỡ đẻ ở nông thôn xưa khi chưa có nhà Hộ sinh, Bệnh viện.
“Bà Mụ”, gọi nôm na là Mẹ sinh, theo
quan niệm dân gian, là những tiên nương phụ trách vấn đề sinh đẻ, được người
dân tại một số vùng miền châu Á, trong đó có Việt Nam.
2. Sự tích Bà Mụ:
Tục thờ cúng 12
bà Mụ là tín ngưỡng khởi từ Trung Hoa. Theo truyền thuyết, tục này có từ lâu đời và
đã từng được giải nghĩa trong tác phẩm Phong thần diễn nghĩa 封神演義 của Hứa Trọng Lâm (許仲琳, thế kỷ XVI) hoặc của Lục Tây
Tinh (陸西星, thế kỷ XVII). Theo đó, Khương
Tử Nha[1] phụng chỉ Ngọc Đế phong
cho ba vị tiên đảo là Vân Tiêu 雲霄, Quỳnh Tiêu 瓊霄, Bích Tiêu 碧霄 môn đồ của Quy
Linh Thánh Mẫu 皈靈聖母 là “Cảm ứng tùy
thế tiên cô chính thần” 感應隨世仙姑正神, nắm giữ “hỗn
nguyên kim đẩu” 混元金斗 quản việc sinh sản cuõi nhân gian 掌管人世間生產之事. Đời người trước sau đều chuyển kiếp từ cái “kim đẩu” này
bất kể đó là người phàm 凡, thánh 聖, chư hầu 諸侯, thiên tử 天子; dù là quý 貴, tiện 賤, hiền 賢, ngu 愚. Ba vị này gọi
chung là “Dĩ thượng tam gia” 以上三姑, “Chính thị
khanh Tam Cô nương chi thần” 正是坑三姑娘之神, gọi tắt là “Tam
Cô” 三位女仙, hay “Chú Sinh
Nương Nương” 註生娘娘. Đây chính là
Thụ Tử Thần (授子神,thần ban con), và có 12 bà chị 婆姊 gọi là “Thập nhị thư bà”
十二姐婆 hay “Thập nhị bảo mẫu” 十二保母. Trong tranh cổ Thập nhị thư bà với những tư thế khác nhau, tượng
hình người phụ nữ bồng con, dắt con, cho con bú v.v.
Theo tín ngưỡng
dân gian người Việt: đứa trẻ được sinh ra là do các vị Đại Tiên (Bà chúa Đầu thai) và Tiên Mụ mà trực tiếp
là 12 bộ Tiên Nương (12 bà Mụ) nặn ra
ban cho.
Nhưng sự tích 12
Bà Mụ hay 12 vị nữ thần này chưa rõ và có nhiều thuyết khác nhau:
- Sau khi tạo ra
tạo hóa, kiến thiết vũ trụ xong, Thượng đế bèn nghĩ tới sáng tạo ra vạn vật.
Trước hết Ngài dùng chất đục cặn còn sót lại trong trời đất, mà nặn ra đủ giống
vật, từ những con to lớn như quả núi, những con biết bay, biết sống dưới nước,
trong đất, trong làn không khí. Những con vật to lớn, nhỏ đủ cả; khôn ngoan
cũng có con ngu ngốc, có vật linh, mà cũng có con vật nặng nề. Xong vạn vật rồi
Ngài lấy khí trong, chất tinh túy nhất nặn ra một giống vật công phu hơn. Đó là
con người. Việc này được giao phó cho 12 bà Mụ mỗi Bà Mụ lo một việc: người nắn
tai, người nắn mắt, người nắn tứ chi, người dạy trẻ cười, người dạy trẻ nói. Vì
thế mà khôn hơn vạn vật.
- Có thuyết nói
khi tạo ra vũ trụ thì số lượng Thần, người và vạn vật đều có hạn. Người đến khi
chết thì thành Thần, trở lại làm người hay thành vật … Tùy theo sự sắp đặt của
các Thần bên cạnh Thượng Đế mà 12 bà mụ thì làm việc nắn lại hình người cho ai
đó khi được đầu thai trở lại làm người. Mỗi người nắn một bộ phận trong cơ thể
và dạy cả cười , chọc cả khóc cho các chú bé lúc còn nhỏ …
- Ở vùng đất
phương Nam
lại có quan niệm cho rằng 12 Bà Mụ là 12 vị luân phiên nhau lo việc thai sản
trong 12 năm, tính theo “thập nhị chi” - tức theo 12 con giáp.
3. Danh sách 12
bà Mụ trong sinh nở giáo dưỡng,
bao gồm:
1. Mụ bà Trần Tứ
Nương coi việc sinh đẻ (注生 chú sinh);
2. Mụ bà Vạn Tứ
Nương coi việc thai nghén (注胎 chú thai);
3. Mụ bà Lâm Cửu
Nương coi việc thụ thai (取胎 thủ thai);
4. Mụ bà Lưu Thất
Nương coi việc nặn hình hài nam, nữ cho đứa bé (注男女 chú nam nữ);
5. Mụ bà Lâm Nhất
Nương coi việc chăm sóc bào thai (安胎 an thai);
6. Mụ bà Lý Đại
Nương coi việc chuyển dạ (转生 chuyển sinh);
7. Mụ bà Hứa Đại
Nương coi việc khai hoa nở nhụy (護产 hộ sản);
8. Mụ bà Cao Tứ
Nương coi việc ở cữ (養生 dưỡng sinh);
9. Mụ bà Tăng Ngũ
Nương coi việc chăm sóc trẻ sơ sinh (保送 bảo tống);
10. Mụ bà Mã Ngũ
Nương coi việc ẵm bồng con trẻ (送子 tống tử);
11. Mụ bà Trúc
Ngũ Nương coi việc giữ trẻ (保子 bảo tử);
12. Mụ bà Nguyễn
Tam Nương coi việc chứng kiến và giám sát việc sinh đẻ (監生 giám sinh).
Theo sách Đài Bắc
thị tuế thời ký, tại Từ Hựu Cung Sơn ở Đài Bắc lại phối tự cung phụng tới 13 bà
mẹ sinh, thêm một bà Đỗ Ngọc Nương chuyên đỡ đẻ (接生 tiếp sinh).
4. Ý nghĩa tục cúng đầy tháng:
Tháng đầu sau khi
em bé được sinh ra cũng là giai đoạn ở cữ của mẹ bé. Do đó khi kết thúc tháng
đầu cũng là sự kết thúc của giai đoạn khó khăn nhất không chỉ đối với bé mà với
cả bà mẹ thời hậu sản. Đầy tháng là thời điểm đứa trẻ được vừa tròn một tháng
sau sinh, qua thời điểm đó, bé đã thoát được hết hai phần ba của những rủi ro
trong năm tuổi đầu tiên của cuộc đời.
Trong tháng đầu
sau sinh, thời xưa và cả hiện nay trong dân gian tồn tại nhiều tục kiêng cữ,
như không được ra khỏi nhà và tránh tiếp xúc với người khác, ăn uống kiêng khem
đủ thứ. Do đó ngày đầy tháng cũng là ngày đầu tiên gia đình trình với bà con họ
hàng, làng xóm, bè bạn về một thành viên mới trong gia đình. Từ đó làng xóm, họ
mạc chứng nhận về sự tồn tại của một con người, để được nâng niu, chúc tụng, để
cộng đồng có trách nhiệm giúp đỡ, cưu mang, che chở.
Đồng thời, xuất
phát từ hình thức tín ngưỡng dân gian về sự tích 12 Bà Mụ đã nói ở trên mang
đậm dấu ấn tín ngưỡng thờ Mẫu nên việc tổ chức lễ đầy tháng nhằm tạ ơn các Mụ
bà không chỉ nặn ra đứa trẻ, mà còn phù trợ cho “mẹ tròn con vuông”.
5. Nghi thức cúng đầy tháng:
5.1. Mâm Lễ cúng
Bà Mụ:
Lễ cúng Mụ gồm 12
lễ nhỏ (cúng 12 bà Mụ) và 1 lễ lớn (cúng bà Mụ Chúa). Lễ vật thông thường
bao gồm:
Đồ vàng mã: 12
đôi hài màu xanh, 1 đôi lớn, 7 tờ giấy mầu các loại (sẽ chia làm 12 phần nhỏ và 1 phần lớn).
Trầu cau: 13 miếng
trầu têm cánh Phượng, có miếng lớn hơn.
Đồ chơi trẻ em
bằng nhựa hoặc sành sứ: Gồm các bộ đồ chơi giống hệt nhau, bộ 12 con giáp.
Động vật: 12 tôm
nhỏ, 1 tôm lớn để sống hoặc có thể hấp chín. Hoặc nếu không có con to hơn thì
thay bằng 3 con nhỏ. Các con này để vào bát bày cúng và sau khi cúng xong thì
đem thả ra ao, hồ phóng sinh.
Phẩm oản, bánh
kẹo: Trên ban đặt phẩm và bánh, dưới đặt 12 phần đều nhau và một phần lớn hơn
(hoặc nhiều hơn).
Lễ mặn: bao gồm
xôi, gà luộc, cơm, canh, món ăn, rượu trắng. Chú ý xôi và cơm ngoài mâm cúng
trên ban thờ còn 12 vắt nhỏ, một vắt to đạt ở bàn dưới. Bát canh ở dưới 12 quả
trứng chim cút, 1 quả trứng gà, 12 miếng đậu phụ nhỏ, 1 miếng lớn.
Kẹo bánh: Chia
thành 12 phần và một phần to hơn (hoặc nhiều hơn).
Hoa: lọ hoa nhiều
màu cắm ở ban thờ và 12 bông nhỏ, 1 bông lớn ở ban dưới;
Quả: Ngũ quả bầy
ban trên, 12 quả nhỏ và 1 quả lớn ở dưới.
Hương: 3 nén thắp
bàn thờ, 12 nén thắp dưới.
Tiền vàng, nước
trắng ở ban thờ và dưới.
Đĩa muối, gạo ở
ban thờ.
Tiền thật tùy gia
cảnh để cho cháu nhưng nên là số lẻ.
5.2. Lễ cúng Ba
Đức thầy:
Ba đức thầy bao
gồm: Thánh sư 聖师, Tổ sư 组师 và Tiên sư 先师 có chức năng truyền dạy nghề nghiệp (không phải 13 đức thầy). Lễ này gồm con vịt chéo cánh được luộc
chín, 3 chén cháo và 1 tô cháo
5.3. Bữa tiệc
“đoàn du phạn”:
Tiền thật: Giữ
cho bé;
Đồ vàng mã: hoá;
Đồ chơi, bánh kẹo: chia cho trẻ hàng xóm;
Các nắm cơm, thức
ăn mỗi thứ mẹ ăn một ít và “đấm mồm” cho bé;
Gạo, muối, cháo
rải quanh nhà;
Sau lễ cúng Gia
tiên, cúng Ba Đức thầy gia đình hạ lễ “thụ lộc” và bổ sung thức ăn nếu có mời
khách. Đây là bữa tiệc “đoàn du phạn” (團遊飯,bữa cơm tròn trặn
trơn tru). To nhỏ tuỳ gia cảnh.
6. Văn khấn:
6.1. Trước bàn
thờ:
- Con lạy chín
phương Trời, mười phương Phật;
- Con lạy Ngài
Kim niên Đương cai Nhâm Thìn niên Chí đức Tôn thần: Thái Tuế[2] Bành Thái Đại Tướng Quân,
ngài Đương niên chi Thần: Sở Vương Hành Khiển, Hỏa Tinh chi Thần, Biểu Tào Phán
quan[3];
- Con lạy ngài
Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản
gia Táo quân và Chư vị thần linh cai quản xứ
này.
- Con lạy bà Chúa
thai cùng mười hai bà mụ: Chủ sinh, Chủ thai, Giám sinh, Bảo Tống, Thủ thai,
Chuyển sinh, Hộ sản, Chủ nam nữ, Tống tử, An thai, Dưỡng sinh, Bảo tử.
- Con kính lạy Tổ
tiên nội ngoại và chư vị Hương linh
Tín chủ con là:
Lương Đức Mến, sinh năm 1955, tuổi Ất Mùi cùng vợ, các con hiện cư ngụ tại SN
328 đường Hoàng Liên thuộc địa phận tổ 22 phường Kim Tân, thành phố Lào Cai,
tỉnh Lào Cai kính cáo thưa rằng:
Đích tôn của tín
chủ là Lương Đức Hải Nam sinh 3 giờ sáng ngày 17/9/2012, tức là ngày 02 tháng
Tám Nhâm Thìn là con của Trưởng nam Lương Đức Hải Thương (SN 1985) và Trưởng
tức Phạm Thanh Hoà (SN 1988) đến ngày hôm nay, 17/10/2012, ngày 03/9 Nhâm Thìn vừa
đầy tháng,
Vâng theo lễ cũ, Con
xin dâng giấy sớ tiền vàng lễ nghi đẳng vật: (…..)
Con lạy các ngày
cùng thập nhị hoá bà bác làm chứng giám, chấp lễ, chấp bái, chấp kêu, chấp cầu,
chấp tờ vàng cánh sớ phù hộ cho hài đồng của con hay ăn chóng lớn, bốn mùa đều
được điều hòa, chóng biết đi biết chạy, biết thưa, trí tuệ thông minh sáng láng, sau này học
hành giỏi giang tấn tới, công thành danh toại, là người có ích cho gia đình, xã
hội.
Con cầu xin cho
gia đình thịnh vượng, mọi sự hanh thông.
6.2. Bài khấn
Nôm:
Cháu con nay được tháng tròn,
Chắp tay con khấn, dâng hương, rượu, trà.
Xin Thần, Phật, Tổ tiên nhà,
Cùng là Thập Nhị Tiên bà cõi trên:
Xin 5 Bà Mụ đầu tiên,
Phù hộ cho bé ngủ ngoan, ăn nhiều.
Lại dạy cho bé những điều:
Nói, cười, chững, đứng, đi…đều sớm nhanh.
Xin 5 Bà Mụ tiếp linh:
Nâng đỡ cho bé thông minh, ngoan hiền.
Xin 2 Bà Mụ tiếp liên,
Mang xấu đổ biển, đem lành đáo lai.
Lại xin Bà Chúa Bào thai,
Chấp kêu, chấp lễ, chấp Bài khấn Nôm.
Độ cho bản mệnh sớm hôm:
Bình an, chóng lớn, giỏi giang mai ngày.
-Lương Đức Mến (BS từ nhiều nguồn tham khảo. Dùng trong gia
tộc)-
[1] Tề
Thái Công 姜太公,
tên thật là Khương Thượng 姜尚, tự là Tử Nha 子牙, nên thường
được gọi là Khương Tử Nha 姜仔呀, là khai quốc
công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là vua khai lập nước Tề tồn
tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
[2] Vòng luân phiên các Thái Tuế tinh quân 太歲神是年歲之神 ứng
với vòng Lục thập Hoa giáp tính từ Giáp Tý đến Quý Hợi. Khi cầu an năm nào cần
khấn đúng tên vị Thái tuế năm đó.
[3] Đây là kíp Thần trực ban năm Nhâm Thìn
2012. Có Mười hai vị Đại vương, mỗi năm một vị cai quản cõi nhân gian là Thập
nhị Hành Khiển đại vương, tính theo Thập Nhị Địa Chi 十二地支, bắt đầu
là năm Tý, cuối cùng là năm Hợi. Hết năm Hợi cũng quay lại năm Tý với Đại vương
Hành Khiển 行譴大王 mười hai năm về trước.
Mỗi Đại vương Hành Khiển đều có một vị Hành Binh 行兵尊神 là quan Võ lo giữ an ninh, trật tự địa
phương. Đồng thời còn có một Phán Quan 判官尊神 là Thư ký giúp việc, việc ghi chép công,
tội của mọi người, mọi gia đình, mọi thôn xã, mọi quốc gia. Do vậy mỗi năm phải
khấn một khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!