Quê tôi thuộc huyện An Lão, thành phố
Hải Phòng và địa danh cấp huyện này có từ thời Trần. Nhưng cấp hành chính trên
nó thì thay đổi nhiều lần trong lịch sử. Đặc biệt là thời thuộc phủ Kinh
Môn và sau đó là thuộc phủ Kiến Thuỵ dễ gây nhầm lẫn cho người đọc sử và tìm
hiểu Gia phả nhất.
Trước hết nói về cấp hành chính “Phủ”. Nguyên
nghĩa Hán tự 府 là “tên gọi của từng
phương đất đã chia” sau dùng chỉ một đơn vị hành chính thời phong kiến tại
tại Đông Á và người đứng đầu quản lý một phủ là quan Tri phủ 知府. Đơn vị phủ
và chức quan tri phủ tại Trung Quốc đã được đặt ra từ thời nhà Đường, chính
thức là một chức trong quan chế từ thời nhà Tống. Ở Việt Nam “Phủ” là khu vực
hành chính dưới cấp “Lộ” 路 thời Lý (李朝, 1009 - 1225),
Hậu Lê (後黎朝, 1428 - 1788) và dưới cấp “Tỉnh” 省 thời
Nguyễn Minh Mạng (明命, 1820-1840).
Cấp này có khi tương đương cấp huyện nhưng có vị trí quan trọng hơn hoặc quản
lý cấp huyện như thời Nguyễn.
Thời cuối Lê trong trấn Hải Dương 海陽鎭 có phủ Kinh Môn 荊門 là 1 trong 4 phủ của xứ Đông, gồm 7 huyện nên gọi đây là “vùng Thất huyện” 七縣. Bẩy huyện là: Giáp Sơn (峡山 nay là Kinh Môn thuộc Hải Dương), Đông Triều (東潮 huyện Đông Triều và thành phố Uông Bí hiện nay), An Lão (安老 nay là An Lão thuộc Hải Phòng), Nghi Dương (宜陽 Kiến Thụy thuộc Hải Phòng hiện nay), Kim Thành (金城 nay là Kim Thành
thuộc Hải Dương), Thuỷ Đường (水堂 Thủy
Nguyên thuộc Hải Phòng hiện nay), An Dương (安陽 huyện An Dương và quận Hải An thuộc Hải Phòng hiện nay).
Sang thời
Nguyễn, vào năm Minh Mạng 明命 thứ 18 (1837)
tách 4 huyện là An Lão 安老, Nghi Dương 宜陽, Kim
Thành 金城, An Dương 安陽 lập phủ Kiến Thuỵ 建瑞 nên Kinh Môn chỉ còn 3 huyện. Cả 2 phủ đều thuộc
tỉnh Hải Dương 海陽省 (một trong Bắc Kỳ thập tam tỉnh, 北圻十三省) nay là
các quận, huyện của 3 tỉnh.
Dưới thời
thuộc Pháp, từ 11/9/1887 Kiến Thụy thuộc tỉnh Hải Phòng. Sau đó do đổi tên nên
từ 05/8/1902 thuộc tỉnh Phù Liễn và từ
17/2/1906 thuộc tỉnh Kiến An 建安.
Ngày
25/01/1948, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh số 148/SL“Bãi
bỏ các danh từ phủ, châu, quận. Cấp trên cấp xã và cấp dưới cấp tỉnh nhất loạt
gọi là cấp huyện”. Từ đó cấp "phủ" không còn.
Theo bản đồ thời Đồng Khánh thì phủ Kiến Thuỵ có:
Tổ chức
hành chính:
1. Kiêm
lý 兼理 2 huyện là:
- Nghi
Dương 宜陽 với 12 tổng: Phúc Hải 腹海, Đồng
Khê 凍溪, Nghi Dương 宜陽, Cổ Trai
古齋, Trà
Hương 茶香, Đại Trà 大茶, Tiểu Trà 小茶, Sâm
Linh 参苓, Đại Lộc
大祿, Nãi Sơn 乃山, Đồ Sơn 塗山, Lão Lễ 老豊);
- An Lão 安老 với 10 tổng: An Luận 安論, Phương Chử 芳渚, Câu Thượng 勾上, Đại
Hoàng 大黄, Phù Lưu 芙畱, Văn Đẩu 文斗, Biều Đa 裒多, Cao Mật
高密, Đại
Phương Lang 大芳榔, Văn Hòa
文和.
2. Thống
hạt 統轄 2 huyện
là:
- Kim
Thành 金城 với 11 tổng: Lai Vu 莱蕪, Phù Tái 扶載, Cam
Đường 甘棠, Phí Gia
費家, Đâu
Kiên 兜堅, Du Viên
楡園, Nại
Xuyên 柰川, Ngọ
Dương 午陽, Hà Nhuận
河潤, Bất Nạo
不撓, Quan
Trang 觀莊;
- An
Dương 安陽 với 9 tổng: Điều Yêu 條夭, Văn Cú 文句,Trung
Hành 中行, An
Dương 安陽, Đông
Khê 東溪, Gia
Viên 椰園, Chân
Cát 真葛, Lang
Sâm 琅琛, Hạ Giả 下叚.
Các núi: Áng 益山, Phướn 幡山, Voi 象山, Tiên Hội
仙會山, Đẩu 斗山, Yên Ngựa
馬鞍山, Cò 鶩山, Dương 陽山,
Trà 茶山, Đối 對山, Đồ 塗山, Đào
lĩnh 桃嶺.
Các Cửa
khẩu: Văn Úc 文郁海口, Hoà Trinh 禾貞海口, Do 猶海口, Nam Triệu
南趙海口,
Các con
sông: Hổ Mang 虎芒江, Trạm Bạc 湛泊江, Cấm 禁江, Chín Bầu
九裒, Bái 拜江, Nông
Tam kỳ 農三岐.
Các bến
đò: Cổ Pháp 古法渡, Cẩm La 錦羅渡.
Đầu mối
hàng hoá, giao thông: Trạm Đông Khê 東溪站, Hải
Phòng 海防, Thương
Chính 商政, Ninh Hải Nhất 寧海一, Ninh Hải
Nhị 寧海二.
Lương Đức Mến (ST, BS và trình bầy từ nhiều nguồn TK)
Thực ra ngay từ 1898 nhà Nguyễn đã bỏ cấp hành chính "phủ". Khi đó phủ Kiến Thụy ngang cấp với các huyện mà nó từng kiêm lý, thống hạt.
Trả lờiXóa