Tuy không đỗ đạt cao, làm chức tước gì được lưu danh sử sách nhưng Tổ đã có công lớn trong việc khai cơ và đặt nền móng cho một dòng họ đông đúc như hiện nay bên bờ sông Văn Úc. Rất tiếc Gia phả vốn ghi chép đã sơ lược lại thất lạc nên hiểu biết về hậu thế đối với tiền nhân là quá ít. Nhân việc sắp tôn tạo MỘ TỔ xin chép lại đôi điều còn lưu giữ và xác minh được.
Tương truyền Tổ là hậu duệ của Bảng nhãn Thượng thư Lương Đắc Bằng, sinh 1 nam, 1 nữ. Thượng Tổ là Lương Công Trạch 上祖梁公宅 vốn người Đăng Lai 登來, Tiên Minh 先明, Hải Dương 海洋 (sau cải là Phương Lai 芳來, nay thuộc xã Cấp Tiến, Tiên Lãng, Hải Phòng).
Gặp năm đói kém 家貧年奇[1] ,Thượng Tổ cùng với vợ (là Nguyễn Thị Lã[2]) đem theo con gái “bên nồi, bên con” gồng gánh sang ở nhờ, làm thuê cho các gia đình họ Nguyễn, họ Mai vốn đã lập nghiệp ở Hương Hạ, Tổng Cao Mật (Chiến Thắng, An Lão ngày nay). Họ Nguyễn vô tự, Cụ nhận lời ủy thác 寄, để con trai (Nghệ) ở lại khai cơ tại đây và sinh ra dòng họ Lương ngày càng đông.
Mộ Thượng tổ táng tại Kim Đới 今帶, Tiên Lãng, Hải Phòng. Mộ Tổ tỷ táng tại Triều Đông 潮東 sau cải Trung Lăng 中陵 (nay là Khu V TT Tiên Lãng)[3].
Đệ Nhất đại Tổ dòng họ Lương ở Cao Mật (Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng nay) là Cụ Lương Công Nghệ 第一代祖梁公羿 sinh 6 trai (Lẫm, Tuấn, Chiêu, Tú, Thiệu, Linh) và 3 gái. Tổ mất ngày 19/5. Mộ táng tại xã Dư Đông 余東, tổng Phú Kê 富鷄 (nay thuộc Khu I thị trấn Tiên Lãng).
Tuy đã sang An lão, nhưng khi mất, Thượng tổ táng tại Trung Lăng 中陵, Kim Đới 今帶 và Đệ Nhất tổ táng tại Dư Đông 余東 đều thuộc tổng Phú Kê 富鷄, huyện Tiên Minh 先明 (nay là thị trấn huyện Tiên Lãng). Một chi tiết khác, Tổ tỷ là Lương[4] Thị Còi �� (Ngỗi) hiệu Diệu Cần 妙勤, quê Quan Bồ 關蒲 gần Phương Lai 芳來 và cùng thuộc tổng Kinh Lương 涇涼, Tiên Minh (nay là xã Cấp Tiến huyện Tiên Lãng) với Thượng tổ và mộ táng tại Đại Phương Lang 大芳榔 (nay là An Thọ, An Lão, Hải Phòng).
Từ đó cho thấy, dòng họ Lương ở Chiến Thắng nay là xuất từ họ Lương ở làng Lao Chữ của Cụ Lương Đắc Cam mà ra nhưng khác với phái Lương Bạch Đằng, Lương Vinh Quang vốn cùng gốc Dương Áo 陽襖 (nay là Hùng Thắng) mới xác lập tại vùng đó cuối thế kỷ XIX. Mối quan hệ giữa họ Lương Chiến Thắng và Lương An Thọ ngày nay tuy cùng họ nhưng có lẽ từ Tổ tỉ gốc Quan Bồ.
Mong rằng ai, chi phái nào còn có tư liệu (thành văn và truyền miệng) về Tổ và chặng đường đầu trú ngụ tại Cao Mật đọc được những dòng này có thông tin gì cần chỉnh sửa, bổ sung gửi cho thì phúc đức quá!
- Lương Đức Mến –
[1] Khoảng 1740-1750 vào thời Lê Hiển Tông-Trịnh Doanh 黎顯宗 - 鄭楹. Mốc này do tôi tính và thấy có lí vì dựa vào các dữ liệu sau:
- Trong Lược dịch Gia phả ghi tóm tắt: “Vào năm đói kém Tổ (chỉ Lương Công Trạch) đưa 2 con sang Cao Mật vào trọ nhà họ Nguyễn”.
- Sử cũ chép: “Năm 1740-1741 trấn Hải Dương (bao gồm cả Hải phòng ngày nay) người chết đói ngổn ngang, không còn đến phần mười”. Dân chúng phải phiêu tán đi các nơi. Cuộc khảo sát 11/1741 cho thấy có 1/3 số làng xã Bắc Bộ phiêu tán, khảo sát năm 1786 cũng cho kết quả tương tự.
- Gia phả Lương Hoàn (bản phiên âm) chép, tôi lược dịch là: “Đệ Nhị đại Lương Công Thiệu mất ngày 08 tháng 2 năm Minh Mệnh thứ 14 Quý Tị , thọ 64 tuổi”. Theo dương lịch đó là năm 1833 tính ra cụ sinh năm 1769. Cụ là con trai thứ 5 của Cụ Tổ Lương Công Nghệ, sinh ra trên đất Cao Mật nên có thể dự đoán Cụ Tổ sinh khoảng 1730 mà được Thượng tổ đưa sang bằng cách « bên nồi bên con », tức là còn nhỏ.
- Họ mẹ tôi (ở Cốc Tràng, cùng xã Chiến Thắng) đã tìm được Gia phả gốc. Theo đó Đệ Nhất đại Tổ Phạm Đình Khanh đến Cốc Tràng, Cao Mật năm 1716 (mất ngày 09/Giêng/1740). Nay Trưởng tộc ở đời thứ 13.
- Hiện Trưởng tộc đời thứ 8 (Lương Đức Nghiễn, 1930-2009) đã có cháu gọi bằng ông.
[2] Bản của Lương Hoàn chép là Nguyễn Thị Nữ
[3] Phần lai lịch dòng họ, Đệ Nhất Tổ và Tổ các Chi tôi dựa vào bản phiên âm của phụ thân tôi để lại: “Nguyên tiền công quán tại Tiên Lãng huyện, Đăng Lai xã (kim cải Phương Lai) sinh nhất nam, nhất nữ. Sở ngộ gia bần niên cơ, thuỷ tương tử nữ vãng An Lão huyện, Phương Lạp xã trú cư toạ độ hoạt y. Duy hữu Nguyễn, Mai nhị tính. Nguyễn vô tự, nhập ký yên. Hậu sinh nam tử lục nhân, nữ tử tam nhân. Kỳ trưởng Lẫm tảo một vô tự. Thứ Tuấn Nguyễn tộc khất dưỡng, thứ Chiêu thừa tự, thứ Tú tịch cư Mông Tràng Hạ xã, thứ Thiệu, thứ Linh cư gia Phương Lạp xã, lãi bản chi kỳ quý dã. Tái truyền hữu nhất chi di cư Tứ Kỳ huyện, Mỹ Ân xã. Thượng hữu nhất Tổ tại tiền quán Phương Lai xã. Hữu nhất Tổ Phương Lạp xã”. Có đối chiếu với bản Gia phả Lương Hoàn.
[4] Do đó Lương tộc Quan Bồ là ngoại tộc của Lương tộc Chiến Thắng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!