Công đức của Tổ được chép trong
Gia phả của các ngành kèm theo bài Vịnh
Hạ Thập kì (咏賀拾祺, tức bài thơ ghi lại những việc hay)
của người con thứ 5 Đệ Nhất Đại tổ là Lương Công Thiệu 梁公劭.
Hiện tại, theo tôi được tiếp
xúc thì trong dòng họ Lương gốc Chiến Thắng có 2 bản chép Bài thơ nói về Công
Đức Tổ. Đó là bài Hạ Thập kì (賀拾祺, tức bài thơ ghi lại những việc hay).
Cả hai bản đều ghi tên tác giả là người con thứ 5 của Đệ Nhất Đại tổ và là Tổ
Chi thứ Tư là Lương Công Thiệu. Nhưng có những điểm khác biệt giữa hai tài liệu về hoàn
cảnh ra đời và một số câu chữ của bài thơ:
2.1.Về xuất xứ bài thơ:
- Gia phả Chi thứ Hai do các bác tôi là Lương Đức Bình 梁德平,
Lương Đức Chiểu 梁德沼 soạn 19/3/1997 (phiên âm và dịch nghĩa của phụ thân tôi để lại)
có chép: Bài thơ viết ra nhằm ca ngợi công đức Thượng Tổ tỉ là Cụ Lương Công Cảnh
梁公景. Chuyện rằng: Thân phụ Tổ tỉ Lương Thị
Còi 𣔞 (Ngỗi, hiệu Diệu Cần 妙勤) quê ở Quan Bồ 關蒲, Tiên Minh 先明 (Tiên Lãng nay) là một quan binh. Tổ thường được cử đi đánh dẹp những cuộc nổi loạn khắp
nơi thời kỳ đó (thế kỷ XVIII) và lập
được nhiều chiến tích. Một lần, vào ngày Rằm tháng Giêng (năm ?) trước khi xuống thuyền trên sông Văn Úc, Người dặn: Nếu Cụ
không về thì nhớ ngày này làm ngày Giỗ và lần ấy cụ bị trận vong. Sau họ lấy
ngày này để Chạp tổ. Bài Hạ Thập kỳ là Cụ Đồ Thiệu viết để ca ngợi công đức Ngoại
Tổ.
- Trong bản
Gia
phả Lương Hoàn (bản phiên âm
Lương Hoàn An cung cấp) , nguyên văn
như sau: “Gia Long Lục niên Đinh Mão,
công nhất thí bất đệ, Bát niên Kỷ Tỵ sung vi bản tổng, tổng trưởng. Thập nhất
niên đặc cách. Minh Mệnh thất niên Mậu Tuất, Minh Mệnh Nam Định minh giám nhân
danh Ba Vành tác loạn, Công phụng phái củ, tập thôn hào ứng phó, phỉ bình".
Công hữu thi hạ thập cơ quan vân. Thơ như
sau:...”
Tạm
dịch: vào năm Gia
Long thứ 6 (Đinh Mão, 1807) cụ đi thi nhưng không đỗ, hai năm sau được bổ làm Chánh
Tổng. Đến năm Gia Long thứ 11 (1812)
thì được đặc cách. Vào năm Minh Mạng thứ 7 (Đinh Dậu, 1827) theo lệnh vua tập hợp dân chúng quanh vùng (hương binh) cùng quan quân đánh dẹp
cuộc “Ba Vành tác
loạn” ở Nam Định. Loạn tan, cụ về dạy học và
có viết bài thơ này.
2.2. Về nội dung :
Bài chép trong Gia phả ngành Hai
|
Bài chép
trong Gia phả ngành Ba
|
Thành rồng vâng lĩnh ấn Nguyên nhung,
Đây đó vang lừng tiếng nhạc Ông.
Đuốc quý sáng loà doanh Tả nhuệ ,
Hương tào thơm nức cõi Đông Dương.
Mưa nhuần Bẩy huyện lòng dân thoả,
Sóng bật ba vầng mát lòng trung.
Rạng núi Đồ Sơn công hãy tạc,
Thư son khoán sắt
biết bao cùng.
|
Thành
rồng tự lĩnh ấn Nguyên nhung,
Đâu
đấy vang lừng quắc thước Ông.
Kiếm
quý sáng loà doanh Tả nhuệ,
Hương
tào thơm lức cõi Đông ngung.
Mưa
nhuần Bẩy huyện lòng dân thoả,
Sóng
dập ba vành mặt nước trong.
Trỏ
núi Đồ Sơn công hãy tạc,
Thư
son khoán sắt biết bao cùng.
|
Cùng một tác giả nhưng ở 2 bản Gia
phả của cùng một dòng tộc mà khác nhau ở 15 tiếng có lẽ do cách đọc chữ Nôm
khác nhau mà ra. Trước kia tôi đã từng thấy bản chép của thân phụ tôi, nhưng không rõ chữ Nôm hay
chữ Hán, sau ngày cha mất, tôi về tìm không ra bản chép tay ấy. Trong buổi thoái trào của chữ Nho thì trình độ Hán học
của ông, cha, bác, chú tôi không cao; trình độ tân học cao nhất chỉ là Sơ học
yếu lược (Primaire Élémentaire); kiến
thức lịch sử, địa lý hạn chế... nên việc phiên âm, dịch khó chính xác cũng dễ
hiểu. Nay cả 2 bản đều là phiên âm ra quốc ngữ (có cả chữ sai chính tả) không có bản chữ Hán (hay Nôm) nên càng khó xác luận.
2.3. Chú giải, nhận
xét :
Trước khi phục tác 复作 lại bài thơ, tôi thấy cần tìm hiểu
một vài từ cổ, bàn luận về một số từ đã thống nhất hoặc còn dị biệt giữa hai
bản :
- Về Đề bài: theo suy luận của
tôi: toàn gia phả viết bằng chữ Hán, còn bài thơ là viết bằng chữ Nôm. Cụ thể
đoạn trước bài thơ thì phần chữ Hán có thể thế này: 第四支祖梁公紹有詩賀拾祺詩云 (Đệ tứ chi tổ Lương Công
Thiệu hữu thi Hạ thập kỳ. Thi vân) tiếp là bài thơ bằng chữ Nôm. Trong đó “詩云”, đọc là “thi vân”
tức “thơ rằng” nhưng chắc do “tam sao thất bản” phiên âm “vân”
thành ra “Vịnh” 詠! Do vậy thành “Vịnh Hạ Thập kỳ”, nguyên bản chắc chỉ là “Hạ Thập kỳ” 賀拾祺.
- Câu 1 : Chép “vâng
lĩnh” 邦彾 đúng hơn “tự
lĩnh” 叙彾.
“Ấn” 印 tức con
dấu. Phép nhà Thanh định, ấn của các quan thân vương 亲王 trở lên gọi là “bảo” 寶, từ quận vương 郡王 trở xuống
gọi là “ấn” 印, của các quan nhỏ gọi là “kiêm kí” 鈐記, của các quan khâm sai gọi
là “quan phòng” 關防, của người thường dùng gọi
là “đồ chương” 圖章 hay là “tư ấn” 私印.
“Ấn Nguyên nhung” có lẽ là dùng ước lệ theo
lối viết thơ cổ hoặc chỉ việc đứng đầu hương binh 鄕兵正營 trong vùng được huy động cùng quan quân dẹp loạn, chứ nếu Ngoại Tổ làm tới chức Nguyên
Nhung 總戎 thì trong sử sách ắt nêu.
- Câu 2 : Chép “tiếng nhạc” đúng nghĩa, mạch thơ hơn “quắc thước”.
- Câu 3: chữ “doanh Tả
nhuệ” không được hiểu là ca ngợi chiến công “vùng trái sông Nhuệ”, vì như vậy
không hợp địa-lịch sử quê tôi. Theo tôi, chữ đó đúng là 營左銳 với nghĩa là “cánh quân bên tả lợi
hại” nghĩa là “xứng danh tâm phúc, sắc
sảo như cách tay trái của Chủ tướng”. Dịch thơ “Danh tướng giỏi”.
- Câu 4: chữ “Hương tào”:
nếu “Hương” là thôn, làng 鄕 thì “tào” là danh từ riêng nhưng
tôi tìm mãi trong khu vực không có làng, xã nào tên Nôm là “Tào”. Do vậy tôi
cho rằng “hương” là hương thơm 香 và “tào” là nổi danh 嘈. Về sau
tôi được biết: Ngày xưa có chức quan lo Vận tải đường nước gọi là “Tào vận ty” 漕運司 nên “Hương tào” là hương thơm từ các đoàn thuyền trên
sông biển. Điều này hợp quy luật thơ vì nó đối với “Đuốc quý” hay “Kiếm quý” ở
câu trên và logic với “thơm nức cõi” liền sau đó. Bản Lương Hoàn chép “lức” là
do viết ngọng chữ “n/l”.
Từ “Đông Dương” 東洋 vốn là
chỉ Đông bộ Á châu (Nhật Bản 日本), nhưng
về sau cũng dùng để gọi xứ Indochina (Việt
Nam, Lào, Campuchia) thuộc Pháp 法屬印度支那 thành lập 17/10/1887: Liên
bang Đông Dương (H: 東洋聯邦,P: Union Indochinoise, A:
French Indochina). Trong các năm 1804, 1808 sách báo Pháp đã dùng từ này chỉ các nước
Indo-Chine hay vương quốc Tonquin, Cochinchine, Lào nhưng chưa phổ biến. Do vậy, dùng “Đông Dương”
chỉ sự kiện trước 1887 lại đặt nó liên quan đến cuộc
khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (1741-1751),
thơ do Cụ Đồ Thiệu (1769-1833) viết trước đó mấy chục năm thì không có lý. Dùng “đông ngung” 东隅 chỉ “nơi mặt trời mọc”, giống như “hải ngung” 海隅 với nghĩa “ngoài góc bể” có lý hơn. Đồng thời
tiếp sau lại có câu “Sóng dập ba vành”
gắn với cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821-1827)
thất bại vào 3/1827, đúng là năm Đinh Hợi
Minh Mạng thứ 7 như Gia phả Lương Hoàn chép “Minh Mệnh thất niên Mậu Tuất..phỉ
bình” (năm Minh Mạng thứ 7 Mậu Tuất
(?), loạn tan). Bởi thế, chép như bản của Lương Hoàn chính xác hơn ?
- Câu 5: “Bẩy huyện”: phủ Kinh Môn cuối Lê-đầu Nguyễn gồm 7 huyện (Nghi Dương, An Dương, Kim Thành, An Lão, Đông Triều, Giáp Sơn, Thủy Đường).
Năm Minh Mạng 18 (1837) tách 4 huyện
lập phủ Kiến Thuỵ nên Kinh Môn thời Đồng Khánh chỉ còn 3 huyện. Song dân gian vẫn
quen gọi vùng
là này là vùng “thất huyện” 七縣,nổi
tiếng là “đất nghịch”.
- Câu 6: Chép như bản Lương
Hoàn đúng luật thơ và logic hơn nhưng thay “dập” 摺 bằng “bặt” 弼 hợp hơn.
- Câu 7: “Rạng” và “Trỏ” là
động từ, đều không hợp, phải là chữ “Rặng”; “hãy” 咳 không hợp logic mà phải là
“vẫn” 吻 hay “mãi” 買.
- Câu 8: “Thư son khoán
sắt” (書朱券鐵, Thư chu khoán
thiết): chữ viết bằng son, khế ước chế bằng
sắt, tỏ ý “Thư khế” 書契 bền vững, được
lưu truyền dài lâu.
2.4. Thử phục tác:
Dù chưa thống nhất vài điểm
như trên, song bài thơ là có thực, do cụ Đồ Thiệu viết. Bài thơ đã nói lên công
đức của tiền nhân khi chỉ huy hương binh gìn giữ bình yên làng xóm và công đức
ấy được nhân dân quanh vùng ngưỡng mộ, biết ơn, con cháu nhớ ghi, truyền tụng.
Trên cơ sở đối chiếu 2 bản
và căn cứ vào lịch sử giai đoạn này, tôi cho rằng bài “Hạ thập kỳ” do Cụ Đồ Thiệu (梁公劭, 1769 -1833) viết bằng chữ Nôm trong thời gian dạy học tại quê
nhà sau khi theo lệnh vua tập hợp dân chúng quanh vùng cùng quan quân đánh dẹp
cuộc “Ba Vành tác loạn”[1]
trở về[2].
Từ chuyện đời mình, liên tưởng đến Ngoại Tổ mà Cụ đã viết bài này ca ngợi công
đức Ngoại Tổ. Cụ Thiệu là cháu cụ Cảnh, hay chữ, dạy học nên bài thơ đó được
chép lại, con cháu nhớ và lưu truyền. Chính vì viết về Thượng Tổ nên trong Gia
phả Ngành Hai cũng chép bài này.
Bản phục tác của ông Hoàng Đình Khảm |
Theo đề nghị của tôi, ông
Hoàng Đình Khảm (một cháu ngoại họ Lương
Hội Triều, giỏi chữ Hán) đã “sửa lại
vài chữ, chép lại toàn bài như bên”:
Từ lập luận trên, qua góp ý
chỉ bảo của một số bậc túc nho (thư Điện
tử hay trực tiếp) tôi tiến hành phục tác bài thơ của Cụ Đồ Thiệu và qua
nhiều lần chỉnh sửa tôi hình dung bài thơ Ca ngợi Tổ như sau:
賀拾祺: Hạ thập kỳ
城蠬邦彾印元戎
Thành rồng vâng lĩnh ấn
nguyên nhung,
低𣔧㘇㖫㗂樂翁
Đây đó vang lừng tiếng nhạc ông.
燭貴𠓇𤍶營左銳
Đuốc quý sáng loà doanh tả nhuệ,
香漕𦹳㘃𡎝東隅
Hương tào thơm nức cõi đông ngung.
𩄎潤𠤩縣𢚸民𢚶
Mưa nhuần bẩy huyện lòng dân thoả,
浪弼 𠀧㮠𩈘渃𤁘
Sóng bặt ba vành mặt nước trong.
𡻔𡶀圖山功吻 鑿
Rặng núi Đồ Sơn công vẫn tạc,
書𣘈券𨫊別包窮
Thư son khoán sắt biết bao
cùng.
Không có bản gốc nên tôi
phải dựa vào những điều đã biết, dùng máy tính mầy mò tự tạo ra một số chữ
thiếu trong nhu liệu. Có điều nhiều máy tính không được hỗ trợ mã Unicode để
hiện chữ Nôm nên không hiển thị được khi đưa lên mạng, sao sang máy khác nên
tôi đã phải ảnh hoá và in trên nền bản đồ Phủ[3]
Kiến Thuỵ[4] 建瑞府 thời Đồng Khánh (同慶, 1864 – 1889) ở Bìa 4 chuyên luận này.
Nếu tìm được bản gốc hay bản
sao có chữ Hán, Nôm sẽ giải quyết được nhiều vấn đề trong đó có việc xác định
năm mất của Nội Tổ để định ra cấp giỗ hàng năm.
Cổ ngữ có câu “Nhân sinh
bách tuế vi kỳ” 人生百歲爲祇, nghĩa là “mỗi con người ta sống
lâu chừng trăm tuổi”. Đấy là nói về thể xác còn danh tiếng, di sản để lại sẽ
tồn tại mãi trong con cháu, bà con quê hương. Theo thời gian, nếu không được
lưu giữ tốt sẽ thất truyền hay sai lệch nên hậu thế phải biết trân trọng lưu
giữ, truy tìm những gì tiền nhân tạo lập, để lại để học tập, phát huy…Riêng
tôi, mong rằng sẽ có câu đối này ở từ đường để tri ân Tổ:
功在香村名在譜
(Công tại Hương thôn, danh tại phả;)
福留孙子德留民
(Phúc lưu tôn tử, đức lưu dân.).
[1] Chỉ cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821-1827)
nổ ra tại vùng này năm Đinh Dậu, 1827
[2] Nhưng nói Cụ Đồ viết để ôn chuyện mình
lại không phù hợp với truyền ngôn về Tổ được Thuỷ táng ngay sau trận đánh hoặc
đời sau đã gắn việc Cụ Thiệu mất tại Vĩnh Bảo ngày 08/2 năm Minh Mệnh 14 (Quý
Tị, 1833) trong khi được cử đi đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương (?
- 1833) nổ ra tại Vĩnh Bảo. Hơn nữa các Cụ nhà Nho xưa không bao giờ viết
thơ tự ca ngợi mình và như thế không lý gì ngành Hai cũng lưu chép.
[3] Nguyên nghĩa
“phủ” 府 là “tên gọi của từng
phương đất đã chia” sau dùng chỉ một đơn vị hành chính thời phong kiến tại tại
Đông Á và người đứng đầu quản lý một phủ là quan Tri phủ 知府. Đơn vị phủ và chức quan này đã được đặt ra
từ thời Đường, chính thức trong quan chế từ thời Tống. Ở Việt Nam “Phủ” là khu
vực hành chính dưới cấp “Lộ” 路 thời Lý (李朝, 1009 - 1225), Hậu Lê (後黎朝, 1428
- 1788) và dưới cấp “Tỉnh” 省 thời Minh Mạng (明命, 1820-1840), nó có khi tương đương cấp
huyện nhưng có vị trí quan trọng hơn hoặc quản lý cấp huyện và từ 1898 bỏ cấp này mặc dù có nơi vẫn gọi là phủ.
Ngày 25/01/1948, Sắc lệnh số 148/SL “Bãi bỏ các danh từ phủ, châu, quận. Cấp
trên cấp xã và cấp dưới cấp tỉnh nhất loạt gọi là cấp huyện”. Từ đó không còn
cấp “phủ” nữa.
[4] Thời cuối Lê
trong trấn Hải Dương 海陽鎭 có phủ Kinh Môn 荊門 là 1 trong 4
phủ của xứ Đông, gồm 7 huyện nên gọi đây là “vùng Thất huyện” 七縣. Bẩy huyện là: Giáp Sơn (峡山 nay là Kinh Môn thuộc Hải Dương), Đông Triều (東潮 huyện Đông Triều
và thành phố Uông Bí hiện nay), An Lão (安老 nay
là An Lão thuộc Hải
Phòng), Nghi Dương (宜陽 Kiến Thụy thuộc Hải Phòng hiện nay), Kim Thành (金城 nay là Kim Thành thuộc Hải Dương), Thuỷ Đường (水堂 Thủy Nguyên
thuộc Hải Phòng hiện nay), An Dương (安陽 huyện An Dương và quận Hải An
thuộc Hải Phòng hiện nay).
Vào năm Minh Mạng 明命 thứ 18 (1837) tách 4 huyện là An Lão 安老, Nghi Dương 宜陽, Kim Thành 金城, An Dương 安陽 lập phủ Kiến
Thuỵ 建瑞 nên Kinh Môn chỉ còn 3 huyện. Cả 2 phủ này đều thuộc tỉnh Hải Dương 海陽省 (một
trong Bắc Kỳ thập tam tỉnh, 北圻十三省) nay là các
quận, huyện của 3 tỉnh. Từ 11/9/1887 Kiến Thụy thuộc tỉnh Hải Phòng. Năm 1898
chế độ thực dân bỏ cấp phủ, đến đầu thế kỷ XX tuy gọi là phủ nhưng Kinh Môn
trên thực tế chỉ là huyện Giáp Sơn và Kiến Thụy chỉ là huyện Nghi Dương. Sau đó
do đổi tên nên từ 05/8/1902 thuộc tỉnh
Phù Liễn và từ 17/2/1906 thuộc tỉnh Kiến An 建安.
Theo bản đồ thời Đồng Khánh tôi dùng làm nền in bài thơ thì phủ Kiến Thuỵ:
Tổ chức hành chính:
1. Kiêm lý 兼理 2 huyện là:
- Nghi Dương 宜陽 với 12 tổng: Phúc Hải 腹海, Đồng Khê 凍溪, Nghi Dương 宜陽, Cổ Trai 古齋, Trà Hương 茶香, Đại Trà 大茶, Tiểu Trà 小茶, Sâm Linh 参苓, Đại Lộc 大祿, Nãi Sơn 乃山, Đồ Sơn 塗山, Lão Lễ 老豊);
- An Lão 安老 với 10 tổng: An
Luận 安論, Phương Chử 芳渚, Câu Thượng 勾上, Đại Hoàng 大黄, Phù Lưu 芙畱, Văn Đẩu 文斗, Biều Đa 裒多, Cao Mật 高密, Đại Phương Lang 大芳榔, Văn Hòa 文和.
2. Thống hạt 統轄 2 huyện là:
- Kim Thành 金城 với 11 tổng: Lai Vu 莱蕪, Phù Tái 扶載, Cam Đường 甘棠, Phí Gia 費家, Đâu Kiên 兜堅, Du Viên 楡園, Nại Xuyên 柰川, Ngọ Dương 午陽, Hà Nhuận 河潤, Bất Nạo 不撓, Quan Trang 觀莊;
- An Dương 安陽 với 9 tổng: Điều Yêu 條夭, Văn Cú 文句,Trung Hành 中行, An Dương 安陽, Đông Khê 東溪, Gia Viên 椰園, Chân Cát 真葛, Lang Sâm 琅琛, Hạ Giả 下叚.
Các núi: Áng 益山, Phướn 幡山, Voi 象山, Tiên Hội 仙會山, Đẩu 斗山, Yên Ngựa 馬鞍山, Cò 鶩山, Dương 陽山, Trà 茶山, Đối 對山, Đồ 塗山, Đào lĩnh 桃嶺.
Các Cửa khẩu: Văn Úc 文郁海口, Hoà Trinh 禾貞海口, Do 猶海口, Nam
Triệu 南趙海口,
Các con sông: Hổ Mang 虎芒江, Trạm Bạc 湛泊江, Cấm 禁江, Chín Bầu 九裒, Bái 拜江, Nông Tam kỳ 農三岐.
Các bến đò: Cổ Pháp 古法渡, Cẩm La 錦羅渡.
Đầu mối
hàng hoá, giao thông: Trạm Đông
Khê 東溪站, Hải Phòng
海防, Thương
Chính 商政, Ninh Hải Nhất 寧海一, Ninh Hải Nhị 寧海二.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!