Người theo đạo Phật hay không
theo tôn giáo nào ở miền Bắc, sau khi thân nhân mất thường địa táng (hung
táng), sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc Cải
táng (改葬, đổi cách chôn)
sau đó tiến hành Cát táng (吉葬, là hình thức mai
táng hài cốt sau khi cải táng) trái với việc chôn lúc mới chết là “hung
táng” 凶葬. Dân gian gọi việc này là
“bốc mộ”. Ngày nay, nhiều ý kiến muốn bỏ tục này nhưng xem ra khó bởi trong
dòng họ, gia đình quanh năm, lâu dài thế nào chả “có chuyện” khi ấy nếu đổ cho
việc chưa “xây được mộ tròn” cho tiền nhân thì ai chịu? Và ngày càng có xu hướng
“long trọng” hơn và ngoài việc xem ngày, chọn giờ thì việc tìm đất, đặt hướng
và chọn mầu gạch cũng rất được chú trọng.
1. Một số thuật ngữ cổ liên quan:
2. Nguyên do tục lệ:
3. Thời gian thực hiện:
3b. Thời gian cải táng theo quy định của pháp luật:
4. Đất, Hướng :
5.
Xem ngày và chọn giờ:
6. Kiến trúc:
7. Nghi thức:
7a. Vận chuyển hài cốt:
1. Một số thuật ngữ cổ liên quan:
- “Khải toàn” 凱旋: Cải táng, bốc mộ.
- “Lập bi” 立碑: Lập bia cho mộ.
- “Động thổ” 动土: Chỉ việc sửa chữa, đào đất khởi công xây dựng cho nhà ở
hoặc một công trình. Đây là chỉ việc xây dựng Dương trạch, khác với Phá thổ chỉ
loại mai táng thuộc về Âm trạch.
- “Phá thổ” 破土: Công việc phá hay đào đất để chôn cất, xây, và đắp mộ. Chỉ
về công việc cho âm trạch, khác với “động thổ” ở dương trạch. (Nên tiến hành
vào ngày có các sao: Minh phệ, Minh phệ đối; Kỵ các này
có sao: Nguyệt kiến, Thổ phủ, Kiếp sát, Tai sát, Nguyệt sát, Nguyệt hình, Nguyệt
yếm, Ngũ mộ, Thổ phù, Tứ phế, Địa nang, Phục nhật, Trùng nhật).
- “Tu phần” 修坟: Tu sửa phần mộ và cũng có thể táng thêm người mới chết
vào một huyệt của người chết trước, gọi là “Hợp táng” 祫喪.
- “Tạ thổ” 謝土: Lễ tạ thổ thần sau khi hoàn thành công việc kiến trúc, cơ
sở; nghi lễ cử hành cúng tế này còn gọi là Điền lễ. Sau khi hoàn thành phần mộ
và cử hành cúng tế còn gọi là Hoàn phần 完坟.
- “Tế mộ” 祭土: Việc
cúng tế phần mộ, cử hành nghi thức khi đắp xong phần mộ, hoặc là việc tảo mộ trước
và sau Thanh minh.
2. Nguyên do tục lệ:
Từ đời thượng cổ, một khi có người chết, nếu là “địa táng” thì
thân nhân cứ để thế đem chôn, không áo quan cũng không lập phần mộ. Khi xã hội
loài người có tổ chức nhà nước cũng là lúc mà con cháu nhận ra rằng đối với ông
bà cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới chế ra
quan, quách để chôn cất dần hình thành nhiều lệ tục.
Theo cổ truyền, trong tang ma, an táng, cải táng bao gồm 12 phần
việc quan trọng: - Phá thổ (Phá, đào đất để chôn cất, xây, đắp mộ) - Nhập
liễm (Liệm xác) - Di cữu (Chuyển linh cữu, áo quan ra khỏi nhà hoặc nơi
quàn) - An táng (Cử hành lễ chôn xuống đất) - Khải toản (Cải
táng, cải cát, bốc mộ) - Tu phần (Tu sửa phần mộ, cũng có thể xem chung
với việc táng thêm người mới chết vào một huyệt của người chết trước “Hợp táng”)
- Khai sinh phần (Người còn sống làm mộ trước cho mình) - Hợp thọ mộc (Người
còn sống đóng áo quan trước cho mình) - Tiến Thọ phù (Dâng bùa Thọ gồm 8
chữ, phóng dâng ra hư không khi làm sinh phần) - Lập bia (Dựng bia mộ,
hoặc bia tưởng niệm) - Tảo xá vu (Quét dọn nhà cửa, đây là công việc trừ
linh) - Thành - Trừ phục (Mặc và bỏ áo tang).
Nhiều người nghiên cứu cho rằng: trước thời Bắc thuộc dân
Văn Lang (tiền thân của nước ta) chưa có tục cải táng. Trong thời kỳ
nước ta bị các triều đại bên Trung Quốc cai trị (北屬時代,207 tCn- 938), nhiều quan lại và thương lái chính
quốc sang trị nhậm hoặc làm ăn ở phương Nam bị chết, liêu thuộc hoặc con cháu đã
mai táng tại đất Việt. Sau này, con cháu về nước hoặc từ cố hương tìm sang muốn
đưa hài cốt về quê nhà để tiện bề hương khói nên sinh ra tục “cải táng”.
Về sau thành lệ và người Việt (ở miền Bắc ngày nay) học theo và thành phong tục. Việc này mau chóng được phổ biến bởi:
- Vì nhà
nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu, lại
thời gian gấp gáp nên tang chủ mua tạm một cỗ ván đóng
bằng gỗ không tốt để mai táng về sau rất sợ ván hư nát thì hại đến di hài;
- Nơi đặt mộ lúc mới chôn cũng chưa kịp chọn kỹ, sau chỗ đất ấy nhiều mối kiến, ngập nước,
hay sạt mộ, hoặc buộc phải chuyển do nhà chức trách yêu cầu thì cải táng;
- Thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất hoặc cây cối ở trên mả tự
nhiên khô héo, haytrong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc có người đau ốm triền miên, hoặc liên
tục gặp gia biến...cho là “động mả”, tại đất nên cần cải táng;
- Có những
người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng.
Lại có người thầy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần vào chỗ mả nhà
kia, để cầu được hưởng dư huệ.
3. Thời gian thực hiện:
Thông thường sau khi chôn được 3 năm. Nhưng cũng tùy khí
hậu khu vực, vị trí đất chôn, thực tế các mộ quanh đó đã cải mà quyết định. Tiến
hành sớm quá, da, thịt chưa tiêu hết, khi bốc rất thương tâm. Ngược lại để lâu
quá xương cốt mối xông hết gia chủ lại thêm lo. Ví dụ: ở Bắc Hà, Sa Pa do khí lạnh
nên có người chôn 7 năm khi cải phần mềm vẫn chưa tiêu hết hoặc tuy cùng ở Phố
Lu, Bảo Thắng nhưng nghĩa địa Đồi Tên lửa (qua Bệnh viên về phía Nhò) cũng phải 6,7 năm mới bốc mộ được trong khi nghĩa trang
khác cách đó 2 km chỉ 3 năm là sạch. Như Bố tôi mất từ tháng 1/1997 đến đầu năm
2001 (cuối Canh Thìn) định cải táng song lo phạm tuổi Trưởng và út nam
và nhiều ý ra vào nên để lại, đến ngày 20 tháng 12 năm 2001, tức là ngày mồng 6
tháng mười một 初六日 十一月大, hay ngày Đinh Tỵ, tháng Canh Tý
6 năm Tân Tỵ 辛巳年, 庚大月, 己午日 (tức gần 5 năm) tiến hành cải táng.
Chọn ngày: Thường vào dịp cuối năm vì
khi đó thời tiết khô ráo. Nhưng phải trước 23 tháng Chạp bởi sau đó
Thần Táo lên Thiên đình rồi, minh có làm lễ cũng không ai chứng giám cho, kêu
không thấu, cầu chẳng được nên không thực hiện.
Sau đó phải tìm ngày. Điều quan trọng
nhất trong ngày giờ này là tránh các ngày mà có các sao sau chiếu Thiên
cương, Thọ tử, Đại hao, Tử khí, Quan phù (xấu trong mọi việc lớn), Băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), Thổ cấm (kiêng động thổ), Trùng
tang, Trùng phục (kỵ hôn
nhân, mai táng, cải táng).
Ngày nay Lịch Vạn sự, các phần mềm tính sẵn
nhiều. Có thể dựa vào đó để tra, tránh các ngày: Trực bình, Thu, Nguyệt kiến,
Nguyệt phá, Thổ phủ, Kiếp sát, Tai sát, Nguyệt sát, Nguyệt hình, Nguyệt yếm, Tứ
phế, Ngũ mộ, Phục nhật, Trùng nhật.
Nếu không tính được và tránh để anh
em, họ mạc bàn ra tính vào tốt nhất là nên nhờ thầy, mà thầy bây giờ ở đâu
mà chẳng có.
3b. Thời gian cải táng theo quy định của pháp luật:
THÔNG TƯ Số: 02/2009/TT-BYT ngày 26 tháng 5 năm 2009 của Bộ Y tế
hướng dẫn vệ sinh trong hoạt động mai táng và hỏa táng quy định :
Tuỳ theo điều
kiện chất đất, phong tục tập quán và tín ngưỡng của từng vùng mà thời gian cải
táng có thể khác nhau nhưng thời gian từ khi chôn đến khi cải táng không dưới
36 tháng.
Di chuyển thi
hài, hài cốt trong trường hợp giải tỏa nghĩa trang mà chưa đủ thời gian cải
táng theo quy định:
a) Khi đào hết
lớp đất trên nắp quan tài, tiến hành phun dung dịch hoá chất diệt khuẩn thuộc
danh mục các hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực
gia dụng và y tế đã được đăng ký lưu hành như dung dịch Cloramin B nồng độ 5%
lên mặt trên quan tài, sau 30 phút mới được mở nắp quan tài.
Trường hợp thi
hài chưa phân huỷ hết, phải chuyển thi hài sang quan tài khác. Việc xử lý thi
hài và môi trường xung quanh được tiến hành như việc khâm liệm đối với người chết
đã có hiện tượng thối rữa quy định tại Khoản 2 Mục III của Thông tư này.
Trường hợp thi
hài đã phân huỷ hết thì tiến hành cải táng như các trường hợp thông thường để
di chuyển hài cốt đi nơi khác.
b) Ngay sau
khi di chuyển thi hài hoặc hài cốt đi nơi khác phải phun dung dịch hoá chất diệt
khuẩn thuộc danh mục các hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng
trong lĩnh vực gia dụng và y tế đã được đăng ký lưu hành như dung dịch Cloramin
B nồng độ 5% hoặc rắc một lớp vôi bột xuống huyệt mộ.
4. Đất, Hướng :
Ngày nay các địa phương đều đã có nghĩa
trang. Do đó việc hung táng hay cát táng đều được thực hiện tại đây. Mọi lý
thuyết về Long huyệt khó thể áp dụng được một cách chi tiết và
nếu lo lắng hay mê tín quá sẽ rối thêm, nhỡ việc, trái quy tắc văn minh hiện đại,
đôi khi mất đoàn kết xóm thôn.. Hơn nữa, tính linh ứng của kiểu đất bởi “Thiên
trợ táng” 天助葬 sẽ hơn hẳn “Nhân tự táng” 人自葬” và Cát địa âm trạch” đâu phải ai cũng tìm được
mà còn do “cơ duyên” nữa và dù có rồi thì việc “phát” của con
cháu còn do gặp “Thời” và tuỳ “Nhân” nữa. Song để cho an tâm, vững
lòng toàn gia nên tìm ngày để “tránh Hung phùng Cát” 掙凶逢吉 và có thể thực hiện được.
Tìm đất, chọn hướng: ban đầu cổ nhân chú ý cả việc chọn đất
làm nhà (dương cơ), dựng chùa...và đặt mả (âm phần) và
cho rằng ”Nhất dương thắng Thập âm”. Nhưng về sau dương cơ chỉ cốt
lấy hướng còn âm phần (nơi an táng của người thân) thì được quan tâm đến
cả vị trí, thế đất, hình thù đám đất và hướng.
Địa điểm lý tưởng cho nơi đặt mộ là
có thế đất vuông vức, ở lưng chừng quả đồi giống hình chiếc ghế
bành, quanh có Tứ quý 四貴che chở: phía sau có Hậu chẩm 後枕là tựa vào Rùa đen (玄龜Huyền Quy, thuộc Thủy), trước mặt có Minh đường 明堂là Phượng hoàng đỏ (朱雀Chu tước, thuộc Hỏa) thấp hơn như cái ghế để chân, bên
trái có Rồng xanh (青龍Thanh Long, thuộc Mộc) nằm cao hơn, bên
phải có Hổ trắng (白虎Bạch Hổ, thuộc Kim) cần thấp hơn bên trái. Xa
hơn về phía sau có tầng tầng lớp núi cao dần, phía trước có dòng nước chẩy
quanh co coi như huyết mạch của đất. Như vậy địa điểm đặt một lành là phải có đủ
“Long (chân), Huyệt (đích), Sa (bao), Thủy (bọc)”
và tránh những đám đất méo mó, trước rộng, sau hẹp; đất có Bạch Hổ cao hơn
Thanh Long hay trực đơn, thoát khí; Minh đường xung xạ, trực khuynh...
Đặc biệt chú ý chớ có mải mê tìm đất tốt bởi
tốt với nhà này, chưa hẳn tốt với mình vì “Nhất Phúc, Nhì Mệnh, Tam Phong
thủy” mà! Đồng thời chớ có tin thấy bói rằng “Mộ Tổ nhà X bị Mộ Tổ
nhà Y trực chiếu” hay “cản” mà đang tâm tìm cách yểm bùa, đào, xê dịch
mộ nguời hay tìm cách “khắc chế”, “đấu Phong thủy” theo luật Ngũ
Hành (như đắp núi chế hồ, trồng cây hạn đồi, dùng rào sắt khắc rào tre...).
Bởi “mình phụ ngươì là họa, nguời phụ mình là phúc” nên làm vậy chỉ
hại thêm. Đó còn chưa nói đến việc “thầy” thấp tay không trị được tà ma hay bản
thân thầy “hai mang” càng nguy!. Hơn nữa, tất cả việc xem chỉ là yếu tố “Tâm
linh”, để cháu con yên tâm hoàn tất việc báo hiếu chứ”Xương người chết sao cầu
được Phúc”!. Cốt ở con cháu “Tâm thành tất linh ứng” 心誠必靈應, “Tiên tích Đức, hậu tầm Long” 先積德後尋龍 và xưa nay “Đức năng thắng số” 德攮勝數 cũng nhiều.
Nhớ lời thầy và tuân theo căn dặn của thân
phụ khi còn sống, chúng tôi đã chấp hành theo nguyên tắc đó, Bố tôi tuổi Quý Hợi,
mệnh Khôn - Thổ khi hung táng vào Thứ Tư 22/01/1997 (tức là ngày 14 tháng Chạp
năm Bính Tí) do ông Kiên (người gốc Tiên Lãng, ở Xuân Quang) đặt mộ
hướng Tây Bắc thuộc hướng Diên niên. Ngôi mộ này phía sau có Hậu chẩm là tựa
vào Rùa đen (Huyền Quy) là dãy đồi nhà anh Mão; trước mặt có Minh đường
là Phượng hoàng đỏ thấp hơn như cái ghế để chân là quả đồi thuộc Cốc Sâm; bên
trái có Rồng xanh (tả Thanh Long) là dãy đồi hồi nhà ông Sơn nằm cao hơn;
bên phải có Hổ trắng (hữu Bạch Hổ) là dãy đồi thấp kế tiếp núi Cốc Sâm.
Xa hơn có dòng nước chẩy và con đường vào xóm coi như huyết mạch của đất. Đến
khi thực hiện việc cải táng di hài thân phụ, tôi giao cho chú Luân chọn một điểm
tại Nghĩa trang km36 thôn An Phong xã Phong Niên và làm việc với Thôn, Xã về việc
cấp đất. Sau anh em đã kiểm tra lại, thấy thoáng đáng, đủ thực hiện được
nguyên tắc “chiêu mục”, tiện đường.
Hướng mộ là hướng mà khi người nằm dưới
đó ngồi dậy nhìn thấy. Theo nguyên tắc ”trần sao âm vậy” việc
chọn hướng cần dựa vào mệnh người nằm dưới mộ và tránh hướng Tuyệt mệnh, Hoa hại. Khi
nhờ cụ Luận (ở Duyên Hải, thị xã Lào Cai)
tính, Cụ nói đặt hướng Tây (khi ngồi dậy nhìn thấy mặt trời lặn), có nghĩa
là đầu quay hướng Đông. Theo Thuật Phong Thuỷ thì đây là hướng Mão là hướng
thành công và phồn vinh. Tôi đã thực hiện đúng vì khi tự nghiên cứu thấy đó
là hướng Thiên y, hơi chệch lên Bắc sẽ là Diên niên, ghé xuống Nam sẽ là Phúc đức
đều là hướng lành với tuổi Cha.
Trường hợp các gia đình quy tập
mộ người thân trong một khu thì việc xác định hướng là theo mệnh của
người gia trưởng, những thành viên khác sắp xếp theo thứ tự ”Tả chiêu hữu
mục” 左昭右穆: các đời lẻ về bên tay Trái - hướng
Đông, đời chẵn về bên Phải-hướng Tây. Trong bàn đồ thờ Cửu Huyền Thất Tổ cũng sắp
xếp Bài vị hay ảnh theo nguyên tắc này. Dịp sang
cát thân phụ tôi, gia đình
thống nhất đưa mộ bà Nội tôi (mất ngày 22/12/1982, cải táng năm 1986, đặt
ngay cạnh mỏm đá, gần giữa cửa nhà gia đình tôi trong xóm) ra. Vì qui tập
nên phải theo cùng hướng với mộ thân phụ tôi, đặt ở bên tay Trái mộ này.
Dù đã tìm được Cát địa nhưng nếu chôn nhầm
ngày thì coi như “đem thi thể vứt đi” chứ đâu phải mai táng nên hậu quả khôn lường.
Do vậy việc tính ngày giờ trong chôn cất (hung táng) và khi cải mộ (cát táng) rất
quan trọng. Chưa biết hiệu quả thế nào nhưng cứ để cho lòng người vững là tốt.
5.
Xem ngày và chọn giờ:
Điều quan trọng nhất trong ngày giờ mai
táng là tránh các ngày mà có các sao sau chiếu Thiên cương, Thọ tử, Đại hao, Tử
khí, Quan phù (xấu trong mọi việc lớn), Băng tiêu ngoạ giải (kiêng
làm nhà và mọi việc lớn), Thổ cấm (kiêng động thổ), Trùng tang,
Trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng).
Ngày KIÊNG ĐÀO HUYỆT, MAI TÁNG theo tháng
âm lịch:
GIÊNG
|
HAI
|
BA
|
TƯ
|
NĂM
|
SAÚ
|
BÂỶ
|
TÁM
|
CHÍN
|
MƯỜI
|
MMỘT
|
CHẠP
|
Tị
|
Tý
|
Mùi
|
Dần
|
Dậu
|
Thìn
|
Hợi
|
Ngọ
|
Sửu
|
Thân
|
Mão
|
Tuất
|
Tuất
|
Thìn
|
Hợi
|
Tị
|
Tý
|
Ngọ
|
Sửu
|
Mùi
|
Dần
|
Thân
|
Mão
|
Dậu
|
Ngọ
|
Mùi
|
Thân
|
Dậu
|
Tuất
|
Hợi
|
Tý
|
Sửu
|
Dần
|
Mão
|
Thìn
|
Tị
|
Tị
|
Tý
|
Sửu
|
Thân
|
Mão
|
Tuất
|
Hợi
|
Ngọ
|
Mùi
|
Dần
|
Dậu
|
Thìn
|
Hợi
|
Hợi
|
Hợi
|
Dần
|
Dần
|
Dần
|
Tị
|
Tị
|
Tị
|
Thân
|
Thân
|
Thân
|
Giáp
|
Ất
|
Mậu
|
Bính
|
Đinh
|
Kỷ
|
Canh
|
Tân
|
Kỷ
|
Nhâm
|
Quý
|
Mậu
|
Canh
|
Tân
|
Kỷ
|
Nhâm
|
Quý
|
Mậu
|
Giáp
|
Ất
|
Kỷ
|
Bính
|
Đinh
|
Mậu
|
Ngoài ra, các ngày đại kị động thổ an táng là ngày gặp sao: Thái
Tuế, Tuế Phá, Kiếp Sát, Diệt Sát, Tuế Sát, Ngũ Hoàng, Nguyệt Kiến, Nguyệt Phá,
Nguyệt Yếm, Tứ Ly, tứ Tuyệt.
6. Kiến trúc:
Chung : Không phô trương cầu kỳ, nhưng không
tủn mủn kiểu nhà neo và hoa hoè kiểu trọc phú, cần phù hợp, hài hòa với xung
quanh.
Được Mẹ đồng ý, lúc đầu tôi định đưa cả hài
cốt vợ chồng Chú Thím Rật-Bính về đây nhưng chị em Dưỡng - Tràng chưa thống nhất
được, nên tôi không dám ép, chỉ tính cả phần đất mai kia giành cho mẫu thân.
Phần Lương tộc chi mộ
梁族之墓này có kích thước 4,5 x 3 m được xây tường bao, đầu các
ngôi mộ quay hướng Đông (hướng Mão). Mộ Đệ Ngũ Tổ Tỉ 第五祖妣xây mái nhọn trên có gắn Rồng chầu mặt nguyệt, tấm dựng gắn
ảnh (chụp 1982). Mộ đệ Lục Đại Tổ 第六代祖mái uốn vòm, tấm dựng gắn ảnh, hai
bên có đôi câu đối khắc trên đá của LĐM :
Công cao mở đất lưu hậu thế;
Đức cả rèn con rạng tổ tông.
Chính giữa tường phía sau có bàn thờ với bức
hoành phí gồm cả chữ Nho 克昌厥後 (KHẮC XƯƠNG QUYẾT HẬU) và dịch
nghĩa: (Thịnh vượng cho đời sau). Sau này, vào ngày 25/12/2009 (tức
là ngày 10/11 Kỷ Sửu), có nhà xây mộ xung đối với mộ Cha, tôi đã cho bịt cửa
giữa và mở cửa nách để vào mà không làm các động tác “đôi co” hay “đấu phong thủy”
như có người từng khuyên!. Tại cửa chính vừa xây kín phía trên ghép bức bằng đá
khắc chữ Việt chữ Hán: “LƯƠNG TỘC CHI MỘ (Đệ Ngũ và Đệ Lục đại), 阴德不忘 ÂM ĐỨC BẤT VONG” và hai bên đặt đôi câu đối chữ Việt:
PHÙ HỘ VỮNG BỀN MIÊU DUỆ;
NGUYỆN CẦU VĨNH VIỄN ÂM PHẦN.
Chọn mầu gạch: Xưa kia khi cải sẽ đắp mộ tròn. Sau
này xây hình dài hoặc tròn tùy gia chủ nhưng đa phần dài. Hiện nay việc quét
vôi các ngôi mộ xây đã giảm, đa phần là ốp gạch. Việc chọn mầu gạch cũng theo
nguyên tắc sinh vượng của Ngũ hành, Bát quái. Khi xây mộ phụ thân, tôi chọn
gạch ốp là mầu Hồng (sinh vượng cho mệnh Thổ).
7. Nghi thức:
Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ
đường. Ðến hôm cải táng, lại làm lễ khấn thổ công chỗ
để mả mới táng.
Khi cải táng phải cất mộ ban đêm hoặc sáng
sớm khi Mặt trời chưa mọc, hoặc nếu làm ban ngày thì phải có lán che bởi
âm dương cách biệt nên phải kiêng không để mặt trời trực tiếp dọi vào. Nhưng,
xuất phát từ kinh nghiệm thực tế, có nhiều trường hợp, gặp đất dưỡng thi, hoặc
ba điều tường thuỵ (tức mộ kết phát) không nên cải táng, phải lấp lại
ngay. Trong trường hợp thi thể sau nhiều năm vẫn còn nguyên vẹn, nếu để ánh nắng
mặt trời trực tiếp dọi vào thì rữa ra ngay và teo lại. Mặt khác buổi sáng hay đêm
không khí thường trong lành, ít người tụ tập, đỡ độc hại. Vì vậy, để phòng xa
nên kiêng ánh mặt trời, lâu ngày trở thành phong tục chung.
Trước hết khai mả, nhặt
lấy xương xếp vào một cái tiếu sành, rẩy nước vang vào rồi che đậy thật kín,
không cho ánh sáng mặt trời lọt vào được. Nhà phú quý thì dùng quan quách liệm
như khi hung táng đem cải táng sang đất khác. Còn quan
tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về dùng hoặc làm cầu, hoặc làm
chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân. Dân gian tin rằng:
Hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thộ (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để gầm
giường mà nằm thì khỏi đau tức.
Trong khi cải táng có ba điều là tường thuỵ
(tức là mả phát tốt đẹp) mà không cải táng: Một là,
khi đào đất thấy có con rắn vàng thì cho là long xà khí vật;Hai là, khi
mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì cho là đất kết; Ba là,
hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước hay là nước đóng giọt lại
như sữa đều là tốt. Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay.
7a. Vận chuyển hài cốt:
THÔNG TƯ Số: 02/2009/TT-BYT ngày 26 tháng 5 năm 2009 của Bộ Y tế
hướng dẫn vệ sinh trong hoạt động mai táng và hỏa táng quy định:
a) Khi vận chuyển
hài cốt phải đựng hài cốt trong các vật dụng kín, không thấm nước.
b) Khi vận
chuyển hài cốt qua biên giới phải bọc kín hài cốt trong 2 lớp, lớp trong là vật
liệu không thấm nước, lớp ngoài là quách bằng gỗ hoặc bằng sành, sứ.
Khi cải táng di hài thân phụ, theo lời thầy,
gia đình tôi tiến hành theo quy trình: ngày 20 tháng 12 năm 2001: 11 giờ 30 khởi
móng xây mộ mới, 18 giờ bật ván thiên, 19 giờ tắm rửa xong: xương sạch, vàng đẹp;
20 giờ hạ Tiểu xuống mộ mới. Ngày hôm sau xây tiếp phần trên mặt đất. Đúng trưa
ngày 22/12/2001, tức ngày 08 tháng Một năm Tân Tị, kỷ niệm 19 năm ngày Giỗ Nội
Tổ mẫu khánh thành. Vẹn mọi đường, vừa trang trọng, vừa đỡ công đi lại của con
cháu và khách mời ở xa!
Sau khi hoàn thành việc xây phải gắn bia có
ảnh, họ tên, năm sinh, năm mất và có thể có câu đối. Đồng thời nhớ săn sóc mộ
phần chu đáo, nhất là dịp Lễ Tết, Thanh minh, Cúng Giỗ...Gia đình tôi mỗi bận
có việc lớn, như con cái thi, nhập học, đỗ đạt, gả chống, cưới vợ, lên chức, thăng
cấp...ngoài việc yết cáo tại Ban thờ, chúng tôi đều dẫn ra mộ kính cáo với vong
linh Bà và Bố tôi.
Tháng 10 năm 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!