Dòng họ Lương hiện sinh sống ở hay xuất phát từ Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng đều là hậu duệ của Cụ Lương Công Trạch 梁公宅. Cụ từ Đăng Lai, Tiên Minh, Hải Dương (nay là Tiên Lãng, Hải Phòng) một gánh “bên nồi, bên con” sang lập nghiệp tại đây vào năm đói loạn cuối thời Lê-Trịnh. Đời sau suy tôn cụ là Thượng Tổ, người khai sáng ra dòng họ Lương ở Cao Mật: 梁皋密肇祖. Trải gần 300 năm, qua 12 đời con cháu rải khắp từ Bắc vào Nam, từ xuôi lên ngược và đã có những đóng góp nhất định cho dân, cho nước, cho quê hương, dòng tộc qua mọi thời kì.
Từ lâu, việc tưởng niệm công đức Tổ được tiến hành dưới nhiều hình thức và thực hiện vào ngày Rằm tháng Giêng. Đầu Thế kỉ XX con cháu đã dựng lên ngôi nhà gỗ Lim 3 gian dùng làm nơi thờ cúng tổ tiên nhưng đã bị giặc Pháp đốt cháy năm 1947 trong một trận càn lớn. Trong dịp Chạp Tổ Rằm tháng Giêng Kỉ Mão (1999) toàn họ đã nhất trí thực hiện việc xây Từ đường gần nền cũ. Kinh phí và công sức do con cháu mọi miền đóng góp và Công Đức tự nguyện. Tháng 3/1999 công trình được khởi móng, ngày 12 tháng 3 Canh Thìn (16/4/2000) khánh thành. Đó là một ngôi Từ đường còn khiêm nhường cả về quy mô và hình thức nhưng đã đáp ứng được nguyện vọng của cháu con Tổ có chỗ đi về.
Con cháu xa quê, khó có điều kiện về đó để thắp nén Tâm nhang dâng lên Tiên Tổ nên thường tiến hành Vọng Bái. Vào những năm 1962-1970 có 7 gia đình Lương tộc Chiến Thắng lên khai hoang tại Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai và nay đã lên đến 21 hộ Nam và 20 hộ Nữ. Từ đó đã thực hiện việc Giỗ vọng toàn thể được 2 lần. Trong buổi gặp mặt lần thứ Ba (Rằm tháng Giêng Đinh Hợi, tức 03/03/2007), tại nhà Lương Đức Thân ở thôn An Phong, xã Phong Niên, có đại diện 15 hộ đến dự. Thuận đạo trời, hợp lòng người, cháu con nhất trí sẽ ghé vai chung sức góp phần nhỏ bé cùng toàn họ chung lo việc Hiếu. Trước hết, sẽ Cung tiến Từ đường bức Hoành phi mang dòng chữ: 海德山功 (Hải Đức Sơn Công). Có nghĩa là “Công Đức Tổ tiên như núi cao, biển sâu”. Chữ 功 “Công” với nghĩa “Sự nghiệp”, chữ 德 “Đức” với nghĩa “Ơn huệ” còn là chữ, âm đệm của dòng tộc; chữ 海 “Hải” với nghĩa “Biển” chỉ nơi quê gốc, chữ 山”Sơn” với nghĩa “Núi” chỉ một phái con cháu khai hoang ở Lào Cai suốt hơn 40 năm qua.
Nay bức Hoành phi đã xong, nhân ngày Đại Cát, thành kính dâng lên Từ đường với mong mỏi tri ân, noi gương Thượng Tổ cùng các vị Tiên linh. Cháu con xa quê luôn ghi nhớ Công Đức Tổ tông và nguyện làm rạng danh dòng họ.
Dr Lương Đức Mến Dr粱德悗 奉纂
DANH SÁCH
dự Lễ Giỗ vọng Tổ ngày Rằm tháng Giêng Đinh Hợi 2007
tại An Phong, Phong Niên, Bảo Thắng và Cung tiên làm Hoành phi:
Thế hệ thứ Nhất | Thế hệ thứ Hai | Thế hệ thứ ba | Công đức làm Hoành phi | ||
Các con | Dự giỗ | ||||
Lương Đức Duẩn (Đời thứ VI, mất 198) | Lương Thị Nhớ | 5 (2 Trai) | 100.000,00 | ||
Lương Đức Hỗ | 4 (2 Trai) | xx | 100.000,00 | ||
Lương Thị Mong | 4 (1 Trai) | 100.000,00 | |||
Lương Đức Lơ | 4 (2 Trai) | Mất 2002 | 0,00 | ||
Lương Đức Thuế (Đời thứ VII) 50.000,00đ | Lương Đức Trường | Khi bàn, Lương Đức Thuế đã nhận lời, giao cho con là Lương Đức Trường tổ chức. Song không thấy ai sang. Việc Công Đức là do dâu trưởng mang lên Lào Cai ngày 13/5/2007 | 50.000,00 | ||
Lương Thị Nhinh | 0,00 | ||||
Lương Đức Nghiệp | 50.000,00 | ||||
Lương Thị Dinh | 0,00 | ||||
Lương Đức Năm | 50.000,00 | ||||
Lương Đức Sáu | 50.000,00 | ||||
Lương Thị Bẩy | 0,00 | ||||
Lương Đức Hậu | 50.000,00 | ||||
Lương Đức Thiếp (Đời thứ VII, mất 7/2003) | Lương Thị Thi | 4 | xx | 50.000,00 | |
Luơng Đức Thường | 4 (1 Trai) | xxx | 200.000,00 | ||
Lương Thị Đua | 4 (1 Trai) | xx | 50.000,00 | ||
Lương Thị Hoa | 4 (3 Trai) | x | 50.000,00 | ||
Lương Đức Thái | 3 (1 Trai) | 0,00 | |||
còn 5 con với TT Thanh là L.T.Hoàn, L.T.Liên, L.T.Thơm, L.Đ.Toán, L.Đ.Tỵ. | 0,00 | ||||
Lương Đức Tâm (Đời thứ VII) | Lương Đức Hậu | 3 (1 Trai) | x | 30.000,00 | |
Lương Thị Phương | 2 | ||||
Lương Thị Xa | |||||
Lương Thị Vân | |||||
Lương Đức Vương | x (sang 14) | ||||
Lương Thị Yêu | |||||
Lương Đức Chức | x (sang14) | ||||
Lương Thị Thương | |||||
Lương Thị Tới | |||||
Lương Đức Thân (Đời thứ VI, mất 01/1997) | Lương Đức Mến | 2 (1 Trai) | xx | 300.000,00 | |
Lương Đức Thuộc | 2 Trai | xxx | 200.000,00 | ||
Lương Thị Thường | 3 (2 Trai) | xxxx | 50.000,00 | ||
Lương Đức Thức | 2 Trai | x | 200.000,00 | ||
Lương Đức Luân | 3 (1 Trai) | xxxx | 100.000,00 | ||
Lương Thị Lý | 2 (1 Trai) | x | 50.000,00 | ||
Lương Đức Luận | 1 Trai | xxx | 100.000,00 | ||
Lương Đức Dật (Đời thứ VI, mất 7/1977) | Lương Đức An (Ls) | Hi sinh 1970 | 0,00 | ||
Lương Đức Tràng | 4 (1 Trai) | xxx | 100.000,00 | ||
Lương Đức Quang | 2 (1 Trai) | x | 100.000,00 | ||
Còn 2 Nữ đã mất và 01 Nữ ở Hà Nội | |||||
Tổng | 6 Nam (có 2 Đời VII) | 21 Nam, 21 Nữ | 15 hộ | 34 người | 2.180.000,00 |
Ngay hôm Giỗ Vọng mọi người cùng góp tiền được 1.100.000,0 đ. LĐM nhận và có trách nhiệm thực hiện việc đặt làm và cung tiến. Sau đó một số con cháu nghe tin đã cung tiến tiếp, được 2.180.000,00đ. LĐM báo cáo Trưởng họ và nhờ LĐ Vương đặt Xưởng đồ thờ Quốc Tuấn thực hiện. Mọi việc hoàn tất vào 16/5 (30/3/Đinh Hợi). Các chi ở quê có cử đại diện đón nhận trang trọng[5].
Ngày 03/6/2007 (18/4) LĐM trên đường đi công tác từ Nam Định đã về thanh toán đủ.
Cùng thời kì này Trưởng họ cũng đã nhận công đức của một chi bên Tiên Lãng và đã hoàn thành bức với dòng: Quang tiền dụ hậu 光前裕後 tức “Rạng đời trước, sáng cho đời sau” kèm đôi câu đối: “Mộc xuất thiên chi do hữu bản, Thuỷ lưu vạn phái tố tòng nguyên” 木出千枝由有本;水流萬派溯從源, dịch nghĩa là: “Cây chung nghìn nhánh sinh từ gốc; Nước chẩy muôn dòng phát tại nguồn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!