Ngày giỗ Tổ họ Lương Đức có
lịch sử và nghi lễ gắn với một giai thoại đẹp.
1. Lai lịch :
Cụ Lương Công Nghệ là Đệ
Nhất đại Tổ họ Lương ở Chiến Thắng (Cao
Mật xưa) 梁高密第一代 mất ngày 19 tháng 5 năm (?) và để
ghi nhớ, tri ân vị Tổ khai sinh ra dòng
họ hậu thế đã tưởng niệm bằng
nhiều hình thức.
Nhưng ngày đó đúng vào dịp
thu chiêm, cấy mùa bận rộn của nhà nông nên khó tập trung đông đủ. Hơn nữa theo
nguyên tắc “Ngũ đại mai Thần chủ” 五代埋唇主 thì 5 đời hợp giỗ 綜忌, dồn vào “Chạp”
腊 hết, không nhất thiết phải cúng vào ngày kị.
Do đó sau này quan viên họ đã
lấy ngày Ngoại Tổ xuống thuyền trên sông Văn Úc[1] ra đi đánh trận[2] không về (Rằm tháng Giêng) là ngày Chạp Tổ[3]. Việc đó vừa linh thiêng tưởng
niệm người có công, vừa đúng tháng hội hè, ít ảnh hưởng đến việc sản xuất của
cháu con[4]. Tuy nhiên Bài vị 牌位 Bách thế bất diêu chi chủ 百世不祧 支主 ở Từ đường vẫn là “Lương môn lịch đại
tổ tôn thân Thần chủ” 梁門歷代祖宗唇主 (tức Thần chủ các đời
của tổ tiên họ Lương) của Nội Tổ 梁高密肇祖 梁公宅.
Như thế, cùng với Núi Voi,
sông Văn Úc gắn bó mật thiết với quê hương và dòng tộc là vậy:
象山德基門戶詩禮憑舊蔭: Tượng sơn đức cơ môn hộ thi lễ bằng cựu ấm;
郁江人脈亭皆芝玉惹莘香: Úc giang nhân mạch đình giai chi ngọc nhạ tân
hương.
(Tạm dịch: “Núi Voi xây nền đức, gia tộc dòng dõi bởi
nhờ ơn đời trước; Sông Úc tạo nguồn
nhân, cả nhà giỏi tài vì sức gắng lớp sau”).
Lại truyền rằng : “Tử vu ha tặc trận vong. Hậu hữu linh dị,
mỗi phùng tật dịch thiết đàn phụng sự đắc an”. Tạm dịch: “Sau khi tử trận, Cụ rất linh thiêng, con
cháu ai có tật bệnh bày hương án cầu xin sẽ qua khỏi”. Cũng vì thế mà ngày
giỗ của cụ được chọn làm ngày Chạp Tổ và tiến hành khá linh đình.
2. Nghi thức :
Các bậc cao niên trong họ kể
rằng: khi thịnh vượng, có ruộng họ (嗣田, Tự điền, 忌田 Kỵ điền) nên tổ chức Giỗ to, được quan viên họ coi trọng và nhiệt tâm. Trước
tiên là lễ Yết Tổ vào ngày 14 có làm quần áo, thuyền giấy đặt vào nong, nia.
Khi tế xong rước ra bến Khuể
thả xuống sông Văn Úc để trôi ra bể. Tối hôm đó các trưởng Chi, trưởng thượng
và chức dịch, sau bữa “thụ lộc” đánh Tổ tôm, bàn việc họ, có lần còn mời cả phường
trò về hát diễn cho con cháu xem.
Hôm sau, vào ngày Rằm mới
làm Giỗ Tổ chính thức. Cỗ bàn thường sắm lễ tam sinh (Lợn, Gà, Cá) và không thể thiếu món nem (thịt nạc lợn sống, bì luộc chín thái chỉ bóp tỏi, trộn thính). Chỉ
con trai và con dâu được dự Giỗ Tổ; mỗi xuất đinh đều đóng góp tùy thời giá.
Khi hành lễ có đọc Chúc văn;
Trưởng tộc, Bồi tế, các bậc Trưởng Chi đều khăn đóng, áo dài.
Tế xong hạ cỗ bàn, con cháu
“thụ lộc”. Sau đó các chức sắc, đại diện các tiểu ban, chi phái họp công khai
tài chính, bàn bạc, quyết định các công việc tiếp theo[5].
3. Hiện nay :
Bởi nhiều lí do (người tổ chức, kinh phí, người hiểu biết…)
mà có thời kì (những năm 196x, 197x)
việc Giỗ Tổ bị xao nhãng. Sau 1986 phong trào giỗ Tổ của họ dần được phục hồi
và duy trì.
Ban đầu, quỹ họ được đóng
bằng thóc sau đó, vào những năm 199x, khi nền kinh tế ổn định, lạm phát được
khắc chế thì việc đóng góp của các trai đinh (trên 18 tuổi) được tính bằng tiền, gái được miễn, nhưng những người
có lòng muốn đóng bao nhiêu tùy tâm. Tiền đó cho vay, gửi tiết kiệm, Trưởng Họ
sẽ trích lãi hàng năm để cúng.
Theo thông lệ: Mỗi năm một
ngành luân phiên nhau làm “bếp trưởng” lo phục vụ, nấu nướng cho quan viên họ.
Trong ngày đó, con cháu Nội, Ngoại về trước 10 giờ đều được dự, kinh phí góp
theo xuất ăn, tuỳ thời giá.
Lâu rồi chưa tiến hành được
kì Giỗ Tổ lần nào cho toàn vẹn như lệ
cũ. Việc bầu ra Hội đồng tộc biểu, lập Tộc ước, định Qui chế làm việc, soạn Gia
phả, đặt Tộc kỳ, cử các Tiểu ban, gây và sử dụng Quĩ họ, giỗ toàn Đại tôn... chưa được bàn kỹ.
4.
Lời bàn:
Việc
các Chi, Ngành chung giỗ cụ Tổ khai cơ gọi là Hợp tế 合祭, tức là giỗ “Vĩnh thế
thần chủ”, 永世辰主
hay giỗ Cụ Tổ khai sáng, 梁皋密肇祖.
Theo
tôi nên lập lại những tập tục tốt đẹp để răn dạy cháu con, phát huy truyền
thống Tổ tiên và cần mỗi dịp Giỗ Tổ nên ôn lại lịch sử cội nguồn và sự phát
triển của dòng họ.
Nhưng do tình hình thời nay đã khác nên có thể
thay lễ Tế tự kéo dài, lắm nghi thức bằng việc Tưởng niệm Công Đức Tổ tiên được
thực hiện toàn Gia tộc trong những năm Giỗ chẵn (x5 năm kể từ khi Tổ tạ thế), Giỗ tròn (x0 năm kể từ năm Tổ tạ thế). Còn những năm khác hoặc với các gia
đình, chi ở xa có thể Giỗ vọng, cúng riêng mà không Hợp tự.
Do
đó cần nhất là tìm được năm mất hay năm khởi nghiệp của Tổ để định ra cấp độ
các Kì Giỗ, con cháu xa tiện theo. Nhưng cũng tránh những phiền phức do “rượu
vào lời ra”, tị nạnh sự đóng góp, “bao
nhiêu nước xáo đổ đầu trưởng nam”; kính chẳng bõ phiền !
[1] Tôi đoán chứng Người xuôi thuyền ra cửa
bể Kiến Thuỵ để ngược lên phía Đồ Sơn thời đó có nhiều “phản loạn” và phải
chăng có liên quan đến các cuộc khởi nghĩa ghi ở các phần trên và chú thích ngay sau.
[2] Giữa thế kỷ XVIII, vùng Hải Dương có khởi
nghĩa nông dân của anh em Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ phối hợp với Vũ Thác Oánh ở vùng
Thất huyện Hải Dương, nơi đầu tiên là Chí Ninh và giương cao cờ Ninh Dân. Cùng
thời còn có khởi nghĩa nổi tiếng của Quận He Nguyễn Hữu Cầu (1741-1751)
từng chiếm Đồ Sơn, Vân Đồn.
[3] Hai điểm trùng hợp: -Ngày Giỗ Tổ chung (Rằm
tháng Giêng) và Tổ Ngành 3 (19/2) đều không phải ngày kị của Nội Tổ,
-Ngày Giỗ Tổ (Rằm tháng Giêng) và ngày Kị ông Nội tôi (29-Giêng)
chỉ là ngày tưởng nhớ khi Người rời nhà ra đi,cả 2 cụ đều “Thuỷ táng”.
[4] Đáng tiếc là các cụ không truyền lại việc
đó xẩy ra năm nào nên hiện nay khó định cấp giỗ cho từng năm. Bản phiên âm Gia
phả Lương Hoàn có ghi “đệ niên Chính nguyệt Thập Ngũ nhật”, tôi đồ chừng
thiếu một chữ chỉ thứ tự (niên hiệu
vua) ở sau chữ “đệ”. Nếu tìm thấy bản gốc có thể đoán định được năm Ngoại
Tổ hy sinh.
[5] Nghe bố tôi nói các cụ xưa kể lại. Hồi
nhỏ tôi được dự 1 lần . Từ khi lên Lào
Cai, năm 2012 mới códịp.
!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!