Dòng họ Lương ở Chiến Thắng còn lưu truyền giai thoại về: ngày giỗ Tổ, về thế đất ở của Tổ đời thứ Ba, về việc học và thi của cụ Tổ. Trong đó chuyện về thế đất liên quan tới Phong thủy và cách trấn yểm.
Khi Tam Tổ 第三代祖 梁德亨 sinh nam tử (Cụ Lương Đức Hinh) có thày địa lí đi qua coi thế đất và phán rằng: Gia trang Cụ Lý[1] đặt trên đầu rồng, với 2 mắt rồng là ao tròn[2] và ao trước nhà thờ Tổ, do đó cụ tuy giầu, đông con (4 nam) nhưng có nguy cơ tuyệt tự, con cháu dễ vào vòng lao lý, cần phải trấn yểm. Đầu tiên là cần trồng đủ 100 bụi duối dọc phía mi mắt rồng, khi nào cố bà sinh đủ 4 nam thầy sẽ sang giải bùa tiếp thì con cháu mới hưng vượng được. Các bụi duối đã được Cụ Lý cho trồng dọc đường qua giữa xóm[3].
Đúng dịp Tổ Tỉ sinh nam tử thứ tư (cụ Thành) thì có 2 thày trò người Tầu sang buộc ngựa ở gốc duối to. Lúc này Cụ Hanh đã là phó Tổng và vừa cưới bà bé. Tổ không có nhà, Bà cả không tiếp vì cho đó là khách nhờ vả việc quan, sai con dâu ra nói là cụ Tổng đi vắng. Có bà hai mời nước, lén tiếp. Người khách trước khi bỏ đi có nguyền là: con gái cụ Tổng nói năng chỏng lỏn (thực ra đó là con dâu) nên đời sau gái sẽ khổ. Thương tình bà hai, người ấy đã nói gì đó với bà cố hai rồi bỏ đi. Khi Tổ về nghe chuyện, biết thày Tầu sang giải bùa theo hẹn, cho người tìm nhưng không thấy, cụ buồn ốm rồi mất.
Mấy năm sau có người bán thuốc đột tử phía sau nhà, quan về thẩm tra và làm khó dễ mãi. Gia đình phải chịu mai táng xác đó tại vùng đất giữa 2 ao “mắt rồng”.Về sau có lập Miếu thờ mả Khách[4].
Chính những sự kiện và dấu tích trên nên tôi đã viết trong bài TÌNH QUÊ:
Khi Tam Tổ 第三代祖 梁德亨 sinh nam tử (Cụ Lương Đức Hinh) có thày địa lí đi qua coi thế đất và phán rằng: Gia trang Cụ Lý[1] đặt trên đầu rồng, với 2 mắt rồng là ao tròn[2] và ao trước nhà thờ Tổ, do đó cụ tuy giầu, đông con (4 nam) nhưng có nguy cơ tuyệt tự, con cháu dễ vào vòng lao lý, cần phải trấn yểm. Đầu tiên là cần trồng đủ 100 bụi duối dọc phía mi mắt rồng, khi nào cố bà sinh đủ 4 nam thầy sẽ sang giải bùa tiếp thì con cháu mới hưng vượng được. Các bụi duối đã được Cụ Lý cho trồng dọc đường qua giữa xóm[3].
Đúng dịp Tổ Tỉ sinh nam tử thứ tư (cụ Thành) thì có 2 thày trò người Tầu sang buộc ngựa ở gốc duối to. Lúc này Cụ Hanh đã là phó Tổng và vừa cưới bà bé. Tổ không có nhà, Bà cả không tiếp vì cho đó là khách nhờ vả việc quan, sai con dâu ra nói là cụ Tổng đi vắng. Có bà hai mời nước, lén tiếp. Người khách trước khi bỏ đi có nguyền là: con gái cụ Tổng nói năng chỏng lỏn (thực ra đó là con dâu) nên đời sau gái sẽ khổ. Thương tình bà hai, người ấy đã nói gì đó với bà cố hai rồi bỏ đi. Khi Tổ về nghe chuyện, biết thày Tầu sang giải bùa theo hẹn, cho người tìm nhưng không thấy, cụ buồn ốm rồi mất.
Mấy năm sau có người bán thuốc đột tử phía sau nhà, quan về thẩm tra và làm khó dễ mãi. Gia đình phải chịu mai táng xác đó tại vùng đất giữa 2 ao “mắt rồng”.Về sau có lập Miếu thờ mả Khách[4].
Chính những sự kiện và dấu tích trên nên tôi đã viết trong bài TÌNH QUÊ:
...
Thăm quê lòng dạ bồn chồn,
Đâu cây đa cũ, đâu hồn quán Hương[5] ?.
Mắt Rồng ngầu đục ao Tròn,
Giếng làng, bậc đá chẳng còn dấu xưa.
Ngôi đình gắn với tuổi thơ,
Giờ đây người nhớ, người lờ mờ quên!
Chùa làng ẩn bóng thâm nghiêm,
Nay trụ sở mọc thênh thang 3 tầng[6]!
Lối xưa phân cách hai làng,
Nay chung nhập một[7], gốc bàng lãng quên.
Miếu thần, Mả Khách thân quen,
Và hàng Duối yểm có còn nữa đâu !.
Dẫu rằng bãi bể nương dâu,
Mà sao lòng vẫn lưu sầu vấn vương.
...
Thăm quê lòng dạ bồn chồn,
Đâu cây đa cũ, đâu hồn quán Hương[5] ?.
Mắt Rồng ngầu đục ao Tròn,
Giếng làng, bậc đá chẳng còn dấu xưa.
Ngôi đình gắn với tuổi thơ,
Giờ đây người nhớ, người lờ mờ quên!
Chùa làng ẩn bóng thâm nghiêm,
Nay trụ sở mọc thênh thang 3 tầng[6]!
Lối xưa phân cách hai làng,
Nay chung nhập một[7], gốc bàng lãng quên.
Miếu thần, Mả Khách thân quen,
Và hàng Duối yểm có còn nữa đâu !.
Dẫu rằng bãi bể nương dâu,
Mà sao lòng vẫn lưu sầu vấn vương.
...
Người đời sau nói: vì lí do đó mà con cháu các Cụ Hinh, Tuynh, Thành, Chinh khá “vất vả”, nhiều người đông con trai nhưng lại không có cháu trai. Hoặc nếu có thì đều ham cờ bạc, dễ bị tù tội. Hậu duệ của cụ Trinh (con bà Hai) đông hơn và “khá” hơn. Đặc biệt con gái tuy đảm đang, nhưng vất vả về đường chồng con, gia cảnh và mặc dù đã lấy chồng vẫn thường phải do Lương tộc bọc đùm[8].
Ghi chú:
[1] Cụ Lương Đức Hanh làm Lý trưởng
[2] Trước cửa nhà anh Thiếp, sau 2/1964 khi LĐ Thiếp lên Lào Cai để lại cho LĐ Nhiếp.
[3] Duối là loại cây thân gỗ cứng. Những năm 1960-1964, khi tôi nhận thức được và còn nhớ thì thấy rặng duối kéo dài từ ngõ nhà Ngoãn (nhà cũ trước 1964), qua nhà bác Ruẩn, hồi nhà tôi, sau nhà chú Rật đến hồi nhà anh Hiệp, anh Tiêm và chúng tôi hay chặt để đẽo gụ, làm que khăng. Cách quãng còn có những bụi mây. Năm 1997 về thấy còn 1,2 cây đến 2007 thì thấy hết dấu.
[4] Mảnh đất này nghe nói nguyên là vườn ông tôi, nhưng sau nợ nần bán lại cho bà anh Nghiễn. Miếu này đến nay vẫn còn. Thủa nhỏ mỗi bận đi qua khu này chúng tôi rất sợ và hè nhau chạy
[5] Ngay đầu Phương Lạp, mỗi khi có tiền chúng tôi hay mua xôi quán bà Ốc. Nay đã tập hợp rất nhiều người, làm đủ nghề. lộn xộn
[6] Đình 亭 và Chùa 寺 làng tôi nhỏ, ít đồ tế khí, nằm gần 2 bên con đường nhìn ra cánh đồng giáp đê. Cạnh Đình có giếng tròn, có bậc đá dẫn xuống cả làng dùng nước, quanh giếng trồng dứa dại. Góc sân Đình, cạnh lối vào làng có cây bàng lớn. Đình xây trên bậc tam cấp được xếp bởi những phiến đá xanh to và là nơi tôi từng học Vỡ lòng, lớp 1 khi ở quê. Chùa cũ bên sông đào bị đổ, Chùa mới lập những năm 1930 ở xóm trại ngoài làng, trong một khuôn viên nhỏ. Sau khi hoàn thành cải tạo XHCN, đồ tế khí ở Đình được chuyển vào Hậu cung, gian ngoài giành cho lớp Vỡ lòng. Đó cũng là thời kỳ làng được biết dưới cái tên HTX Tân Trào. Các làng khác cùng xã như làng Hầu, Hạ, Thượng, Cốc, Lộc, Kim Côn đều có cả Chùa lẫn Nhà thờ, riêng làng Hương không có ai theo Đạo Thiên Chúa. Cuối những năm 1960 Chùa, Đình làng đều đã dỡ bỏ, chuyển mục đích sử dụng đất: đất Đình chia cho dân, đất chùa làm trụ sở xã.
[7] Năm 1966 Mông Tràng Hạ và Phương Lạp hợp nhất thành Phương Hạ
[8] Thực hư chuyện này thế nào không rõ nhưng có điều chắc chắn là:
+Dấu tích còn đến 1997 như 2 cái ao (mắt rồng),một số gốc duối,miếu thờ mả Khách.
+Thực tế:
-Bà cả đông con trai (4) nhưng đời sau chả mấy thành danh. Riêng Cụ Hinh vì sinh từ trước nên nay còn khá đông cháu chắt, tương đối đỡ “nghịch” hơn, Cụ Tuynh có tới 8 nam nhưng cháu chắt ít, nhiều nhà vô tự, cụ Chinh, cụ Thành đều 3 nam nhưng không có cháu trai nên nay vô tự. Số trai hậu duệ của 4 cụ còn lại đến nay cũng chỉ bằng số trai hậu duệ của cụ Trinh và thường có người tù tội.
-Bà hai hiền thục hơn ,nghe nói có được thày Tầu giúp trừ yểm phần nào nên con cháu (chúng tôi) có “mát mặt” hơn,nhưng nhìn chung vẫn nghèo.,và tất cả đều tha phương.
-Mà con gái ngành này đều vất vả cả.
+Những gái Lương tộc đã lên Lào Cai như cô Huấn, Cô Khuê, cô Thị hoặc các chị tôi như Nhớ, Mong, em tôi như Dưỡng, Sinh , Lí ...đều không tật bệnh thì gia cảnh khốn khó, chồng con lận đận ,
[1] Cụ Lương Đức Hanh làm Lý trưởng
[2] Trước cửa nhà anh Thiếp, sau 2/1964 khi LĐ Thiếp lên Lào Cai để lại cho LĐ Nhiếp.
[3] Duối là loại cây thân gỗ cứng. Những năm 1960-1964, khi tôi nhận thức được và còn nhớ thì thấy rặng duối kéo dài từ ngõ nhà Ngoãn (nhà cũ trước 1964), qua nhà bác Ruẩn, hồi nhà tôi, sau nhà chú Rật đến hồi nhà anh Hiệp, anh Tiêm và chúng tôi hay chặt để đẽo gụ, làm que khăng. Cách quãng còn có những bụi mây. Năm 1997 về thấy còn 1,2 cây đến 2007 thì thấy hết dấu.
[4] Mảnh đất này nghe nói nguyên là vườn ông tôi, nhưng sau nợ nần bán lại cho bà anh Nghiễn. Miếu này đến nay vẫn còn. Thủa nhỏ mỗi bận đi qua khu này chúng tôi rất sợ và hè nhau chạy
[5] Ngay đầu Phương Lạp, mỗi khi có tiền chúng tôi hay mua xôi quán bà Ốc. Nay đã tập hợp rất nhiều người, làm đủ nghề. lộn xộn
[6] Đình 亭 và Chùa 寺 làng tôi nhỏ, ít đồ tế khí, nằm gần 2 bên con đường nhìn ra cánh đồng giáp đê. Cạnh Đình có giếng tròn, có bậc đá dẫn xuống cả làng dùng nước, quanh giếng trồng dứa dại. Góc sân Đình, cạnh lối vào làng có cây bàng lớn. Đình xây trên bậc tam cấp được xếp bởi những phiến đá xanh to và là nơi tôi từng học Vỡ lòng, lớp 1 khi ở quê. Chùa cũ bên sông đào bị đổ, Chùa mới lập những năm 1930 ở xóm trại ngoài làng, trong một khuôn viên nhỏ. Sau khi hoàn thành cải tạo XHCN, đồ tế khí ở Đình được chuyển vào Hậu cung, gian ngoài giành cho lớp Vỡ lòng. Đó cũng là thời kỳ làng được biết dưới cái tên HTX Tân Trào. Các làng khác cùng xã như làng Hầu, Hạ, Thượng, Cốc, Lộc, Kim Côn đều có cả Chùa lẫn Nhà thờ, riêng làng Hương không có ai theo Đạo Thiên Chúa. Cuối những năm 1960 Chùa, Đình làng đều đã dỡ bỏ, chuyển mục đích sử dụng đất: đất Đình chia cho dân, đất chùa làm trụ sở xã.
[7] Năm 1966 Mông Tràng Hạ và Phương Lạp hợp nhất thành Phương Hạ
[8] Thực hư chuyện này thế nào không rõ nhưng có điều chắc chắn là:
+Dấu tích còn đến 1997 như 2 cái ao (mắt rồng),một số gốc duối,miếu thờ mả Khách.
+Thực tế:
-Bà cả đông con trai (4) nhưng đời sau chả mấy thành danh. Riêng Cụ Hinh vì sinh từ trước nên nay còn khá đông cháu chắt, tương đối đỡ “nghịch” hơn, Cụ Tuynh có tới 8 nam nhưng cháu chắt ít, nhiều nhà vô tự, cụ Chinh, cụ Thành đều 3 nam nhưng không có cháu trai nên nay vô tự. Số trai hậu duệ của 4 cụ còn lại đến nay cũng chỉ bằng số trai hậu duệ của cụ Trinh và thường có người tù tội.
-Bà hai hiền thục hơn ,nghe nói có được thày Tầu giúp trừ yểm phần nào nên con cháu (chúng tôi) có “mát mặt” hơn,nhưng nhìn chung vẫn nghèo.,và tất cả đều tha phương.
-Mà con gái ngành này đều vất vả cả.
+Những gái Lương tộc đã lên Lào Cai như cô Huấn, Cô Khuê, cô Thị hoặc các chị tôi như Nhớ, Mong, em tôi như Dưỡng, Sinh , Lí ...đều không tật bệnh thì gia cảnh khốn khó, chồng con lận đận ,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!