Cách đây 31 năm, những ngày này chúng tôi đang bấn lên vì học lại nặng một nỗi lo gia đình chưa biết sơ tán về đâu?
Dạo đó tôi đang học năm thứ năm tại Học Viện Quân y. Lúc này quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã căng thẳng. Bọn tôi được học tập gương liệt sĩ Lê Đình Chinh và phổ biến phải sẵn sàng đồng thời cũng nhận thư nhà từ Lào Cai viết xuống là người Hoa từ các tỉnh nội địa bỏ về Trung Quốc qua đường Lào Cai đông và khá phức tạp; thanh niên được vũ trang và đi trồng tre, tập luyện.... Tại An Phong (sau này gọi là thôn), nơi gia đình tôi cư ngụ, nhiều hộ dân từ tuyến I chuyển về quê hoặc về tuyến II. Trong dịp đó, hộ ông Phận chuyển từ Bát Xát về và một số hộ lẻ (Chị Thi, chị Hậu) từ nơi khác chuyển đến. Nhiều hộ rục rịch định chuyển xuôi. Song ở quê cũng rất khó khăn, đất đai đã bán nên cuối cùng cũng chẳng ai về.
Tết Kỷ Sửu ấy tôi không ngược Lào Cai mà đi Nho Tống, Phú Minh, Phú Xuyên chơi tại nhà bạn là Phùng Thế Hùng. Sáng Mồng 4 Tết (31/01/1979) Khóa 69 chúng tôi lên Lục Nam, Hà Bắc lao động. Trời rét cắt da. Chúng tôi khai mương, phục hoang ruộng cũ rất hăng say. Đất mấy quả đồi quanh lũng khá cằn và còn dấu tích của những hầm mỏ khai thác Vàng cách đây mấy chục năm. Chúng tôi trọ trong nhà dân, họ rất nghèo, đông con và tốt bụng. Thứ bẩy 17/2 (21 tháng Giêng âm lịch) chúng tôi trở về trường. Dọc đường thấy các đơn vị bộ đội vẫn chưa nâng cấp báo động, tăng pháo vẫn trùm bạt. Nhưng tới trường thì biết: Chiến tranh biên giới đã nổ ra. Tôi nghĩ nhà mình cách biên giới tới 36 Km chắc TQ khó đánh đến nơi ! Sau này mới biết mình dự đoán sai. Mà việc bất ngờ này không chỉ có tôi, bố tôi kể lại có cán bộ Tuyên giáo hôm trước còn nói “có nhử kẹo TQ cũng không đánh!” và không phát lệnh sơ tán.
Mãi sau này tôi mới biết cuộc chiến đã được Đặng Tiểu Bình (鄧小平; Dèng Xiǎopíng; 22/8/1904 - 19/2/1997) chuẩn bị kĩ về dư luận, về lực lượng và kế hoạch, để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Rõ ràng là nhân dân biên giới bất ngờ về thời gian và quy mô tấn công của TQ.
Đây là cuộc chiến của Trung Quốc đánh vào 6 tỉnh biên giới Việt Nam đầu năm 1979 thường gọi là Chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979 (1979 年,越-中边界战争, Chiến tranh biên giới phía Bắc (1979-1989 年,北部边界战争), 1979 hay Công cuộc phòng thủ biên giới phía Bắc, 1979 hay Chiến tranh bành trướng Bắc Kinh 1979; Bảo vệ biên giới 1979-1989. Phía Trung Quốc gọi là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến). Nhiều nhà nghiên cứu coi cuộc chiến này là một phần của Chiến tranh Đông Dương lần 3.
Cuộc chiến này tuy ngắn (17/02-18/3/1979) nhưng khốc liệt, xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Sau đó, xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa. Có thể nói đây “nhất tiễn ngũ tiêu”: (1) phạt Việt; (2) khoe Mỹ; (3) đe Xô; (4) cứu Pôt và (5) hiện đại hoá 3 quân (Hải, Lục, Không quân).
Tại Lào Cai, người bạn lớn, vốn “núi liền núi, sông liền sông” 山联山,江联江, một thời “môi hở răng lạnh” đã huy động hơn 15 vạn quân thuộc Quân đoàn 13, 14 (do tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh chỉ huy) đồng loạt đánh vào huyện Bát Xát, Mường Khương, bắc cầu phao tràn qua sông Hồng, sông Nậm Thi tấn công tx Lào Cai. Với chiến thuật “biển người” cùng sự hỗ trợ của xe tăng, pháo kích, các đội quân “sơn cước” thông thạo địa hình, tấn công theo kiểu “bừa cào”, đối phương đã tràn qua 10 Đồn Biên phòng, 64 xã, 7 khu phố, 4 thị trấn thuộc 4 huyện, 2 thị xã. Theo đường 7 tới Bắc Ngầm và Phong Niên là xã cuối cùng theo tuyến đường này mà quân TQ tràn qua (ngày 22/02), theo đường sắt qua ga Phố Lu, theo đường 4E qua Gia Phú. Từ Bát Xát vượt Sa Pa xuống Thanh Phú. Cầu Kiều, cầu Cốc Lếu, cầu Làng Giàng ở tx Lào Cai, các cây cầu dọc đường HN 7 từ tx Lào Cai đi Bắc Ngầm, đi Mường Khương bị phá sập; nhà máy Apatit bị tháo dỡ; nhiều công trình phúc lợi bị hủy hoại. Ngày tái lập tỉnh, trở lại thị xã Lào Cai thấy toàn lau lách, chỉ còn nhà thờ, kho gạo ở Cốc Lếu, Đồn Biên phòng, vài nhà ở Phố Tèo, Công ty Dược ở cây 4... là còn bóng nhà xây, cây cầu biểu tượng của thị xã gục đổ xuống lòng sông. Đau nhất là đến tận 1994 khi làm đường, làm nhà vẫn có người thiệt mạng do xà beng chọc vào mìn chống tăng gài từ ngày đó.
Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của quân dân Hoàng Liên Sơn diễn ra theo 3 giai đoạn (16-20/02; 21-25/02 và 26/02-04/3/1979). Bị chặn đánh ở khu vực Quang Kim, ngã ba bản Phiệt, khu phố Duyên Hải (trong thị xã Lao Cai), đến ngày 24-2-1979, TQ đã phải tung hết lực lượng dự bị vào chiến đấu, nâng tổng số quân trên hướng Hoàng Liên Sơn lên tới trên 2 quân đoàn. Sau những ngày cầm cự, tiêu hao sinh lực, cản bước tiến của đối phương và rút để bảo toàn lực lượng, các LLVTND Việt Nam vừa chiến đấu tại chỗ, bám chốt kết hợp tập kích, luồn sâu tấn công hình thành thế cài răng lược tiến tới phản công.
Do đã “hoàn thành kế hoạch”, bị dư luận lên án và chắc do khó khăn về tiếp vận, ngày 05/3 Bắc Kinh tuyên bố rút quân. Trên địa bàn Lào Cai việc đó được thực hiện bắt đầu từ 08/3 và đến 15/3/1979 rút khỏi Mường Khương và Bát Xát nhưng PLA vẫn giữ một số điểm cao thuộc các mốc 11, 19, 22. Sau đó, TQ vẫn sử dụng quân đội áp sát biên giới, thường xuyên mở những cuộc lấn chiếm, tấn công nhỏ, pháo kích, thám báo xâm nhập, đặt mìn, tuyên truyền tâm lí…kéo dài mấy năm sau.
Trong thời gian quân TQ tràn qua, đại bộ phận nhân dân xã tôi sơ tán (người khai hoang về quê, dân bản địa rút về tuyến sau), số ở lại chủ yếu người vùng cao, già yếu. LLVT địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực đã góp phần tiêu hao nhiều sinh lực đối phương.
Từ nơi lao động ở Lục Nam (Hà Bắc) trở về trường và suốt tuần đó, chiều chiều tôi đạp xe ra Ga Hàng cỏ thấy đồng bào lũ lượt bồng bế nhau về quê tránh CT, gặp nhiều người quen nhưng chưa thấy người xóm tôi. Thương nhất là đồng bào người Tầy, người Nùng cũng lên tầu nhưng khi xuống ga thì chẳng biết đi đâu nên sau đó lại ngược tiếp.
Đúng hôm Chủ nhật (24/2) tôi đi Phú Xuyên chơi thì gia đình xuống tới HN, bố vào Trường không gặp lại ra Ga ngay. Tối về, nghe anh Bé kể lại tôi đạp xe ra và gặp đủ cả nhà. Thì ra khi "quân bành trướng" tiến tới Phong Hải (20/02) gia đình tôi mới rút xuống km45, ở nhờ nhà anh Thiếp ở Thái Vo (Xuân Quang). Lúc đi chỉ có bà, bố mẹ tôi và các em Thức, Luân, Lý, Luận. Thuộc đang học ở Yên Bái, Thường trong Dân quân ở lại. Nghỉ ở Thái Vô một hôm thấy không yên lại đi nhờ xe bộ đội đến Phố Ràng, chuyển tiếp Yên Bái và từ đó xuôi tầu về Hà Nội. Nếu không có cuộc chiến chắc Thuộc-Nghị sẽ chuẩn bị cưới. Nhiều chuyện cười ra nước mắt. Đúng là chạy loạn: chẳng hiểu thế nào mà mẹ tôi cho vào thúng gánh cả hòn đá mài chạy bộ nhiều đoạn xuống tận đây. Ngay đêm đó gia đình đi tầu về quê Hải Phòng, kiểm lại kẻ gian đất Hà thành đã kịp lấy đi của gia đình mấy thứ. Khi xây dựng gia đình (01/1982) tôi mới biết bố vợ tôi khi từ Gia Phú ra Phố Lu mệt quá nghỉ lại nhưng khi đi tiếp thì lại cầm mỗi chiếc điếu cày. Ra Lu mới biết nhưng bộ đội không cho quay lại nữa bởi pháo đã bắn tới Xuân Giao rồi!
Đây cũng là thời gian tôi chuẩn bị đi thực tập vòng II. Phút chót mới biết tôi đi Sài Gòn, một số bạn lại lên ngay Lào Cai. Xin mãi mới được anh Phẳng C trưởng đồng ý, tối 17/3 tôi ra ga HC chen mua vé lên tầu về Hải Phòng, trên tầu gặp gia đình bà Minh cũng trên đường về quê. Đến HP lúc 9 giờ, trời tối lại lạ đường (Từ khi rời quê năm 1964 tôi mới trở lại một lần vào năm 1971) nhưng dựa vào trí nhớ tuổi thơ tôi vẫn đạp xe về đến làng được. Đường làng trơn, dò mãi cũng tới nhà anh Tiêm. Bà lại ở xóm trong (họ Đặng), tôi vào thăm bà một lát. Sáng ra vào Cốc (bên Ngoại) thăm Mẹ và các em. Tại đây mới biết Bố và Thường đã ngược lên Lào Cai từ 2 hôm trước vì được tin TQ rút khỏi xã tôi từ 08/3. Sau này tôi được biết khi bố lên đến nơi thì nhà đã cháy hết, Thường còn bới được ít soong nhôm chảy, bố nhặt được ít đinh ! Năm ấy lại vừa được mùa, thóc của nhà tôi và của cô Thị chất đầy 2 hầm sau nhà. Theo Quang nói thì ngày 09/3 sau khi TQ rút, Quang khi ấy đóng quân gần đó có về thì nhà vẫn còn, Quang còn thử và ghi rõ “nước giếng không có độc” . Có lẽ do BĐ ta nấu ăn vô ý gây cháy. Chăn, màn phải lên chốt, các dãy giao thông hào mà bộ đội ta, quân TQ đã đào nhặt nhạnh đem về dùng. May là bằng Tốt nghiệp cấp 3 của tôi và Thuộc lại được vất ra sau nhà, không cháy theo. Khi Thuộc về đã nhặt được và tiy bị mối xông nhưng nội dung cơ bản vẫn còn. Do vậy chúng tôi không gặp rắc rối gì khi kiểm tra văn bằng rộ lên dạo 1995. Đây là ngôi nhà dựng năm 1975, to nhất thôn khi đó và đúng hôm cất nhà thì con gà mái nhẩy lên độ làm gẫy chiếc rui cái! May còn con lợn vì thả ra nên còn sống, khi gia đình lên, nó tìm được về.
Thế là lại làm lại từ đầu ! Buồn cười là khi nhận hàng viện trợ do nhà bị cháy, mẹ tôi nhận được toàn quần áo con nít, trong khi út Luận đã 9 tuổi! Nhà cháy, tiền thóc hết, gia đình che tạm một lán trên nền cũ. Đến khi cưới Thuộc (ngày 10/02/1981, tức là ngày 06 tháng Giêng năm Tân Dậu), rồi cưới tôi (ngày 22/01/1982, tức 28 tháng Chạp Tân Dậu) vẫn chưa dựng được nhà. Ngôi nhà mẫu thân tôi đang ở là dựng năm 1983.
Sau khi quân TQ rút , nhân dân trở lại tiếp tục khôi phục sản xuất và không có tranh chấp tài sản, ruộng đất gay gắt như ở một số nơi. Kiểm lại cả Đội bố mẹ tôi ở không chết một ai, chỉ mất tài sản, lợn gà bỏ lại và cháy một ngôi nhà. Mọi người nhặt nhạnh những gì còn sót, thu gom vật liệu lợp lại nhà, dọn mảnh pháo làm nương, cầy ruộng cấy trồng, xây dựng lại cuộc sống. Tại đây cũng không xẩy ra mâu thuẫn, tranh chấp đất đai, tài sản với đồng bào người thiểu số hay người Kinh kẹt lại.
Nhưng có những phức tạp bởi là vùng đệm giữa Phố Lu (“Hồng Công” của phía Bắc Hoàng Liên Sơn) và vùng biên Mường Khương (nơi diễn ra những vụ buôn lậu nổi tiếng). Trong thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, con đường chiến lược Hoàng Liên Sơn I (đường Thuận Hải, tỉnh lộ 154) từ km 36 qua Tân Hồ (Phong Niên) ngược Cốc Ly (Bắc Hà), lên Tả Thàng, Cao Sơn (Mường Khương) được mở ra và khai thông. Đường này do lực lượng TNXP tỉnh Thuận Hải (sáp nhập 2/1976 giữa Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy; đến 1991 lại tách ra thành Ninh Thuận và Bình Thuận), kết nghĩa với Hoàng Liên Sơn cùng quân dân HLS mở từ sau 2/1979. Đến 9/1983 UBND tỉnh Hoàng Liên Sơn huy động dân công và thanh niên các huyện tuyến sau lên mở rộng và nâng cấp. Đây là đường chiến lược nối thông 3 huyện Bảo Thắng, Mường Khương, Bắc Hà. Đường Hoàng Liên Sơn II (tỉnh lộ 155) là nối Mường Hum, Bản Sèo (Bát Xát) - Ô Quý Hồ - Sa Pa - Thanh Phú. Điều này đã tạo ra nhiều co hội phát triển về văn hoá, kinh tế các thôn bản trong vùng. Nhưng cũng làm cho rừng mau cạn kiệt hơn.
Là người con mà gia đình bị cháy nhà khi sơ tán về quê và sau đó bao bận đi công tác vùng biên những ngày nóng bỏng 1982-1986, tôi hiểu những mất mát của chiến tranh. Quá khứ buồn đau cho cả 2 dân tộc, nhất là bà con vùng giáp biên đã khép lại. Nhưng chúng ta “khép lại” chứ khó thể “quên đi” bởi nhiều vết sẹo chưa liền, dấu tích cuộc xâm lấn của QGPND hồi 2/1979 cũng như dấu tích của công nhân quốc phòng TQ giúp Lào Cai năm 1966 vẫn còn hiện hữu. Bắt đầu từ sau ngày tái lập tỉnh, cuộc chiến “bảo vệ Tổ quốc” giai đoạn 1979-1986 ít được nhắc đến, những bài thơ bài hát hào sảng đi cùng tháng năm hồi đó không được đọc hay hát lại... nhưng chắc rằng chưa thể phai nhạt trong mỗi người dân đất Việt. Đặc biệt với những người, những gia đình có mất mát, thiệt thòi, biến động bởi cuộc chiến.
Đấy là quy luật, là đạo lý và là quyền của mỗi người!
Dạo đó tôi đang học năm thứ năm tại Học Viện Quân y. Lúc này quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã căng thẳng. Bọn tôi được học tập gương liệt sĩ Lê Đình Chinh và phổ biến phải sẵn sàng đồng thời cũng nhận thư nhà từ Lào Cai viết xuống là người Hoa từ các tỉnh nội địa bỏ về Trung Quốc qua đường Lào Cai đông và khá phức tạp; thanh niên được vũ trang và đi trồng tre, tập luyện.... Tại An Phong (sau này gọi là thôn), nơi gia đình tôi cư ngụ, nhiều hộ dân từ tuyến I chuyển về quê hoặc về tuyến II. Trong dịp đó, hộ ông Phận chuyển từ Bát Xát về và một số hộ lẻ (Chị Thi, chị Hậu) từ nơi khác chuyển đến. Nhiều hộ rục rịch định chuyển xuôi. Song ở quê cũng rất khó khăn, đất đai đã bán nên cuối cùng cũng chẳng ai về.
Tết Kỷ Sửu ấy tôi không ngược Lào Cai mà đi Nho Tống, Phú Minh, Phú Xuyên chơi tại nhà bạn là Phùng Thế Hùng. Sáng Mồng 4 Tết (31/01/1979) Khóa 69 chúng tôi lên Lục Nam, Hà Bắc lao động. Trời rét cắt da. Chúng tôi khai mương, phục hoang ruộng cũ rất hăng say. Đất mấy quả đồi quanh lũng khá cằn và còn dấu tích của những hầm mỏ khai thác Vàng cách đây mấy chục năm. Chúng tôi trọ trong nhà dân, họ rất nghèo, đông con và tốt bụng. Thứ bẩy 17/2 (21 tháng Giêng âm lịch) chúng tôi trở về trường. Dọc đường thấy các đơn vị bộ đội vẫn chưa nâng cấp báo động, tăng pháo vẫn trùm bạt. Nhưng tới trường thì biết: Chiến tranh biên giới đã nổ ra. Tôi nghĩ nhà mình cách biên giới tới 36 Km chắc TQ khó đánh đến nơi ! Sau này mới biết mình dự đoán sai. Mà việc bất ngờ này không chỉ có tôi, bố tôi kể lại có cán bộ Tuyên giáo hôm trước còn nói “có nhử kẹo TQ cũng không đánh!” và không phát lệnh sơ tán.
Mãi sau này tôi mới biết cuộc chiến đã được Đặng Tiểu Bình (鄧小平; Dèng Xiǎopíng; 22/8/1904 - 19/2/1997) chuẩn bị kĩ về dư luận, về lực lượng và kế hoạch, để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Rõ ràng là nhân dân biên giới bất ngờ về thời gian và quy mô tấn công của TQ.
Đây là cuộc chiến của Trung Quốc đánh vào 6 tỉnh biên giới Việt Nam đầu năm 1979 thường gọi là Chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979 (1979 年,越-中边界战争, Chiến tranh biên giới phía Bắc (1979-1989 年,北部边界战争), 1979 hay Công cuộc phòng thủ biên giới phía Bắc, 1979 hay Chiến tranh bành trướng Bắc Kinh 1979; Bảo vệ biên giới 1979-1989. Phía Trung Quốc gọi là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến). Nhiều nhà nghiên cứu coi cuộc chiến này là một phần của Chiến tranh Đông Dương lần 3.
Cuộc chiến này tuy ngắn (17/02-18/3/1979) nhưng khốc liệt, xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Sau đó, xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa. Có thể nói đây “nhất tiễn ngũ tiêu”: (1) phạt Việt; (2) khoe Mỹ; (3) đe Xô; (4) cứu Pôt và (5) hiện đại hoá 3 quân (Hải, Lục, Không quân).
Tại Lào Cai, người bạn lớn, vốn “núi liền núi, sông liền sông” 山联山,江联江, một thời “môi hở răng lạnh” đã huy động hơn 15 vạn quân thuộc Quân đoàn 13, 14 (do tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh chỉ huy) đồng loạt đánh vào huyện Bát Xát, Mường Khương, bắc cầu phao tràn qua sông Hồng, sông Nậm Thi tấn công tx Lào Cai. Với chiến thuật “biển người” cùng sự hỗ trợ của xe tăng, pháo kích, các đội quân “sơn cước” thông thạo địa hình, tấn công theo kiểu “bừa cào”, đối phương đã tràn qua 10 Đồn Biên phòng, 64 xã, 7 khu phố, 4 thị trấn thuộc 4 huyện, 2 thị xã. Theo đường 7 tới Bắc Ngầm và Phong Niên là xã cuối cùng theo tuyến đường này mà quân TQ tràn qua (ngày 22/02), theo đường sắt qua ga Phố Lu, theo đường 4E qua Gia Phú. Từ Bát Xát vượt Sa Pa xuống Thanh Phú. Cầu Kiều, cầu Cốc Lếu, cầu Làng Giàng ở tx Lào Cai, các cây cầu dọc đường HN 7 từ tx Lào Cai đi Bắc Ngầm, đi Mường Khương bị phá sập; nhà máy Apatit bị tháo dỡ; nhiều công trình phúc lợi bị hủy hoại. Ngày tái lập tỉnh, trở lại thị xã Lào Cai thấy toàn lau lách, chỉ còn nhà thờ, kho gạo ở Cốc Lếu, Đồn Biên phòng, vài nhà ở Phố Tèo, Công ty Dược ở cây 4... là còn bóng nhà xây, cây cầu biểu tượng của thị xã gục đổ xuống lòng sông. Đau nhất là đến tận 1994 khi làm đường, làm nhà vẫn có người thiệt mạng do xà beng chọc vào mìn chống tăng gài từ ngày đó.
Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của quân dân Hoàng Liên Sơn diễn ra theo 3 giai đoạn (16-20/02; 21-25/02 và 26/02-04/3/1979). Bị chặn đánh ở khu vực Quang Kim, ngã ba bản Phiệt, khu phố Duyên Hải (trong thị xã Lao Cai), đến ngày 24-2-1979, TQ đã phải tung hết lực lượng dự bị vào chiến đấu, nâng tổng số quân trên hướng Hoàng Liên Sơn lên tới trên 2 quân đoàn. Sau những ngày cầm cự, tiêu hao sinh lực, cản bước tiến của đối phương và rút để bảo toàn lực lượng, các LLVTND Việt Nam vừa chiến đấu tại chỗ, bám chốt kết hợp tập kích, luồn sâu tấn công hình thành thế cài răng lược tiến tới phản công.
Do đã “hoàn thành kế hoạch”, bị dư luận lên án và chắc do khó khăn về tiếp vận, ngày 05/3 Bắc Kinh tuyên bố rút quân. Trên địa bàn Lào Cai việc đó được thực hiện bắt đầu từ 08/3 và đến 15/3/1979 rút khỏi Mường Khương và Bát Xát nhưng PLA vẫn giữ một số điểm cao thuộc các mốc 11, 19, 22. Sau đó, TQ vẫn sử dụng quân đội áp sát biên giới, thường xuyên mở những cuộc lấn chiếm, tấn công nhỏ, pháo kích, thám báo xâm nhập, đặt mìn, tuyên truyền tâm lí…kéo dài mấy năm sau.
Trong thời gian quân TQ tràn qua, đại bộ phận nhân dân xã tôi sơ tán (người khai hoang về quê, dân bản địa rút về tuyến sau), số ở lại chủ yếu người vùng cao, già yếu. LLVT địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực đã góp phần tiêu hao nhiều sinh lực đối phương.
Từ nơi lao động ở Lục Nam (Hà Bắc) trở về trường và suốt tuần đó, chiều chiều tôi đạp xe ra Ga Hàng cỏ thấy đồng bào lũ lượt bồng bế nhau về quê tránh CT, gặp nhiều người quen nhưng chưa thấy người xóm tôi. Thương nhất là đồng bào người Tầy, người Nùng cũng lên tầu nhưng khi xuống ga thì chẳng biết đi đâu nên sau đó lại ngược tiếp.
Đúng hôm Chủ nhật (24/2) tôi đi Phú Xuyên chơi thì gia đình xuống tới HN, bố vào Trường không gặp lại ra Ga ngay. Tối về, nghe anh Bé kể lại tôi đạp xe ra và gặp đủ cả nhà. Thì ra khi "quân bành trướng" tiến tới Phong Hải (20/02) gia đình tôi mới rút xuống km45, ở nhờ nhà anh Thiếp ở Thái Vo (Xuân Quang). Lúc đi chỉ có bà, bố mẹ tôi và các em Thức, Luân, Lý, Luận. Thuộc đang học ở Yên Bái, Thường trong Dân quân ở lại. Nghỉ ở Thái Vô một hôm thấy không yên lại đi nhờ xe bộ đội đến Phố Ràng, chuyển tiếp Yên Bái và từ đó xuôi tầu về Hà Nội. Nếu không có cuộc chiến chắc Thuộc-Nghị sẽ chuẩn bị cưới. Nhiều chuyện cười ra nước mắt. Đúng là chạy loạn: chẳng hiểu thế nào mà mẹ tôi cho vào thúng gánh cả hòn đá mài chạy bộ nhiều đoạn xuống tận đây. Ngay đêm đó gia đình đi tầu về quê Hải Phòng, kiểm lại kẻ gian đất Hà thành đã kịp lấy đi của gia đình mấy thứ. Khi xây dựng gia đình (01/1982) tôi mới biết bố vợ tôi khi từ Gia Phú ra Phố Lu mệt quá nghỉ lại nhưng khi đi tiếp thì lại cầm mỗi chiếc điếu cày. Ra Lu mới biết nhưng bộ đội không cho quay lại nữa bởi pháo đã bắn tới Xuân Giao rồi!
Đây cũng là thời gian tôi chuẩn bị đi thực tập vòng II. Phút chót mới biết tôi đi Sài Gòn, một số bạn lại lên ngay Lào Cai. Xin mãi mới được anh Phẳng C trưởng đồng ý, tối 17/3 tôi ra ga HC chen mua vé lên tầu về Hải Phòng, trên tầu gặp gia đình bà Minh cũng trên đường về quê. Đến HP lúc 9 giờ, trời tối lại lạ đường (Từ khi rời quê năm 1964 tôi mới trở lại một lần vào năm 1971) nhưng dựa vào trí nhớ tuổi thơ tôi vẫn đạp xe về đến làng được. Đường làng trơn, dò mãi cũng tới nhà anh Tiêm. Bà lại ở xóm trong (họ Đặng), tôi vào thăm bà một lát. Sáng ra vào Cốc (bên Ngoại) thăm Mẹ và các em. Tại đây mới biết Bố và Thường đã ngược lên Lào Cai từ 2 hôm trước vì được tin TQ rút khỏi xã tôi từ 08/3. Sau này tôi được biết khi bố lên đến nơi thì nhà đã cháy hết, Thường còn bới được ít soong nhôm chảy, bố nhặt được ít đinh ! Năm ấy lại vừa được mùa, thóc của nhà tôi và của cô Thị chất đầy 2 hầm sau nhà. Theo Quang nói thì ngày 09/3 sau khi TQ rút, Quang khi ấy đóng quân gần đó có về thì nhà vẫn còn, Quang còn thử và ghi rõ “nước giếng không có độc” . Có lẽ do BĐ ta nấu ăn vô ý gây cháy. Chăn, màn phải lên chốt, các dãy giao thông hào mà bộ đội ta, quân TQ đã đào nhặt nhạnh đem về dùng. May là bằng Tốt nghiệp cấp 3 của tôi và Thuộc lại được vất ra sau nhà, không cháy theo. Khi Thuộc về đã nhặt được và tiy bị mối xông nhưng nội dung cơ bản vẫn còn. Do vậy chúng tôi không gặp rắc rối gì khi kiểm tra văn bằng rộ lên dạo 1995. Đây là ngôi nhà dựng năm 1975, to nhất thôn khi đó và đúng hôm cất nhà thì con gà mái nhẩy lên độ làm gẫy chiếc rui cái! May còn con lợn vì thả ra nên còn sống, khi gia đình lên, nó tìm được về.
Thế là lại làm lại từ đầu ! Buồn cười là khi nhận hàng viện trợ do nhà bị cháy, mẹ tôi nhận được toàn quần áo con nít, trong khi út Luận đã 9 tuổi! Nhà cháy, tiền thóc hết, gia đình che tạm một lán trên nền cũ. Đến khi cưới Thuộc (ngày 10/02/1981, tức là ngày 06 tháng Giêng năm Tân Dậu), rồi cưới tôi (ngày 22/01/1982, tức 28 tháng Chạp Tân Dậu) vẫn chưa dựng được nhà. Ngôi nhà mẫu thân tôi đang ở là dựng năm 1983.
Sau khi quân TQ rút , nhân dân trở lại tiếp tục khôi phục sản xuất và không có tranh chấp tài sản, ruộng đất gay gắt như ở một số nơi. Kiểm lại cả Đội bố mẹ tôi ở không chết một ai, chỉ mất tài sản, lợn gà bỏ lại và cháy một ngôi nhà. Mọi người nhặt nhạnh những gì còn sót, thu gom vật liệu lợp lại nhà, dọn mảnh pháo làm nương, cầy ruộng cấy trồng, xây dựng lại cuộc sống. Tại đây cũng không xẩy ra mâu thuẫn, tranh chấp đất đai, tài sản với đồng bào người thiểu số hay người Kinh kẹt lại.
Nhưng có những phức tạp bởi là vùng đệm giữa Phố Lu (“Hồng Công” của phía Bắc Hoàng Liên Sơn) và vùng biên Mường Khương (nơi diễn ra những vụ buôn lậu nổi tiếng). Trong thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, con đường chiến lược Hoàng Liên Sơn I (đường Thuận Hải, tỉnh lộ 154) từ km 36 qua Tân Hồ (Phong Niên) ngược Cốc Ly (Bắc Hà), lên Tả Thàng, Cao Sơn (Mường Khương) được mở ra và khai thông. Đường này do lực lượng TNXP tỉnh Thuận Hải (sáp nhập 2/1976 giữa Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy; đến 1991 lại tách ra thành Ninh Thuận và Bình Thuận), kết nghĩa với Hoàng Liên Sơn cùng quân dân HLS mở từ sau 2/1979. Đến 9/1983 UBND tỉnh Hoàng Liên Sơn huy động dân công và thanh niên các huyện tuyến sau lên mở rộng và nâng cấp. Đây là đường chiến lược nối thông 3 huyện Bảo Thắng, Mường Khương, Bắc Hà. Đường Hoàng Liên Sơn II (tỉnh lộ 155) là nối Mường Hum, Bản Sèo (Bát Xát) - Ô Quý Hồ - Sa Pa - Thanh Phú. Điều này đã tạo ra nhiều co hội phát triển về văn hoá, kinh tế các thôn bản trong vùng. Nhưng cũng làm cho rừng mau cạn kiệt hơn.
Là người con mà gia đình bị cháy nhà khi sơ tán về quê và sau đó bao bận đi công tác vùng biên những ngày nóng bỏng 1982-1986, tôi hiểu những mất mát của chiến tranh. Quá khứ buồn đau cho cả 2 dân tộc, nhất là bà con vùng giáp biên đã khép lại. Nhưng chúng ta “khép lại” chứ khó thể “quên đi” bởi nhiều vết sẹo chưa liền, dấu tích cuộc xâm lấn của QGPND hồi 2/1979 cũng như dấu tích của công nhân quốc phòng TQ giúp Lào Cai năm 1966 vẫn còn hiện hữu. Bắt đầu từ sau ngày tái lập tỉnh, cuộc chiến “bảo vệ Tổ quốc” giai đoạn 1979-1986 ít được nhắc đến, những bài thơ bài hát hào sảng đi cùng tháng năm hồi đó không được đọc hay hát lại... nhưng chắc rằng chưa thể phai nhạt trong mỗi người dân đất Việt. Đặc biệt với những người, những gia đình có mất mát, thiệt thòi, biến động bởi cuộc chiến.
Đấy là quy luật, là đạo lý và là quyền của mỗi người!
Đã 41 năm trôi qua. Mọi chuyện đã đi vào quá khứ."Tứ tương", "Bốn tốt", "16 chữ vàng" đã được giăng đầy các mặt báo, là việc của quốc gia, việc lớn. Còn với người dân, có việc cần và phải quên đi để sống, làm việc, quan hệ... nhưng cũng có việc không thể nào quên được.
Trả lờiXóaChắc nhầm, 32 năm thôi (1979-2011)!
Trả lờiXóaThời điểm đó Dương Đắc Chí (杨得志, 13/01/1911 – 25/10/1994) là Tư lệnh Quân khu Côn Minh 昆明軍區司令 lúc đầu chỉ phụ trách phía Tây Nam (hướng đánh Lào Cai) sau do Hứa Thế Hữu 許世友 “nướng quân” không đạt ý đồ nên phụ trách toàn tuyến. Năm 1980 được thăng Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng 總參謀長.
Trả lờiXóaĐúng là đến 2011 mới có 32 năm, đến 2014 là 35 năm. Lùi xa thời gian nhìn lại cuộc chiến những năm đó một cách sát sự thật nhất mới thấy hết cái quý giá của hòa bình, của hữu nghị, để rút ra bài học cho chính mình: cái gì lẽ ra đã có thể tránh được, cái gì cần nhớ để nhắc lại cho mình và cho thế hệ sau.
Trả lờiXóaNhững ngày tháng 5/2014 này, khi mà giàn khoan Hải dương thạch du 981 đang hạ đặt tại Biển Đông của Việt Nam kèm theo bao tuần bảo vệ thì những điều tôi viết về cuộc chiến 279 nhưng chưa tiện đưa lên chắc chắn sẽ phải đưa lên đây. Không giữ lại làm gì nữa và cũng không e ai trách phạt gì!
Trả lờiXóaNgày đó, cỗ máy tuyên truyền khổng lồ đã thuyết phục binh lính và người dân Trung Quốc rằng quyết định của ban lãnh đạo Trung ương là cần thiết và đúng đắn bởi Việt Nam đã trở thành “Cuba ở phương đông”, tên “côn đồ ở châu Á” và là “chó săn của Liên Xô”, là “Tiểu bá” tham vọng bành trướng.
Trả lờiXóaTheo bài bản chiến thuật của QGPND, lãnh đạo PLA tấn công Việt Nam áp dụng chiến thuật “Ngưu đao sát kê” (牛刀殺雞 , dùng dao mổ trâu để cắt tiết con gà) với nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến là:
Trả lờiXóa- Tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của Việt Nam;
- Sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (前炮後衝 tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của Việt Nam tại những những điểm mấu chốt;
- Các đơn vị xung kích nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến các đô thị vùng biên.
Hôm nay, 17/02/2022 là 43 năm! Nhưng không ai đi kỷ niệm cái ngày quê hương bị dày xéo, mà cần kỷ niệm cái ngày quê hương sạch bóng quân thù, nhân dân hát vang những khúc Khải hoàn ca!
Trả lờiXóa