[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


19 tháng 2 2010

Cô tôi: Lương Thị Thị

Hôm nay là ngày giỗ Cô,
Từ xa dâng vọng trang thư nhớ người.

Cô tôi (ở Hải Phòng chị bố cũng gọi bằng cô) Lương Thị Thị 梁氏巿 Sinh năm Giáp Dần, Duy Tân thứ 8 (1914). Như vậy tên của cô, bố và chú tôi sẽ là: 怡,市,親, 逸 với nghĩa: Vui vẻ, họp chợ, thương yêu , yên vui.. Sau khi vợ sinh 2 gái (Ri, Thị) bỏ ra ngoài Vàng Danh, Cẩm Phả làm phu mỏ Than. Mãi khi cụ Mạo sai con là Liêm (tuy là cháu gọi ông tôi bằng chú nhưng còn hơn cả tuổi ông; Biết ông rất thích chơi Diều nên Bác Liêm rủ ông về vào dịp Hội thả Diều ra tìm, mới về). Do vậy bố tôi cách cô tới 6 tuổi.

Co tóc dài, mỗi lần gội đầu phải kê ghế để đứng chải tóc. Lớn lên trong khốn khó, không được học hành, phải cùng mẹ bươn chải nuôi em từ nhỏ. Người đảm đang, có trách nhiệm với việc họ, việc làng, hơi “khó tính”, ít hợp với con cái. Vất vả đường chồng con.

Năm 1962 từ Mĩ Đức, cô và anh Taùa cùng gia đình chị Phường-Ruân lên khai hoang ở Sơn Hải, ở Đội An Lão. Nơi đây là đất bãi ven hữu ngạn sông Hồng xen những đồi thấp trước đó thuộc xã Sơn Hà, phần đông là người Tầy, người Dao Họ. Đầu 1962 đã có những tốp thanh niên đầu tiên gồm 212 lao động trong Đội tiền tiêu lên vỡ đất, lập làng. Đến năm 1964 thì Sơn Hải là HTX đầu tiên với quy mô hoàn chỉnh. Nhà làm theo dãy kiểu như Phố (theo mô hình “Công xã” hay “Nông trang” ?) bên Liên Xô, Trung Quốc: mỗi Đội mang tên một huyện ở quê cũ hoặc tổ chức xen ghép trong các HTX có từ trước. Chính người dân Sơn Hải đã giúp đỡ nhiều cho những người họ mạc, đồng hương An Lão lên gây dựng An Phong ở Phong Niên bên kia sông sau này (2/1964). Khi gia đình tôi lên khai hoang, do đường xa, rừng rậm lại có một mình nên năm Lớp 2 (1864-1965) tôi học tại đây do thày Chin dạy. Hồi ấy SH là một trong những xã mạnh của huyện.Tôi đã từng dự một đám cưới một lúc 2 đôi tại Hội trường với Băng rôn: “Thụy-Chuyền, Chắp-Chón chan hòa niềm vui”. Mãi đến năm 1967 mới xếp lại nhà theo ý gia chủ và khu nhà cô tôi ở đổi thành thôn An Tiến. Nơi tôi học xưa kia thành trụ sở UBND xã. Có thể nói cô rất chiều và quí tôi. Năm học 1964-1965 tôi học ở đây. Khi có cãi nhau giữa tôi và anh Tầu thì bao giờ anh cũng phải nhận phần đòn.Thủa nhỏ đã vậy, lớn lên cũng thế. Cô đã từng xuống Yên Bái thăm vợ chồng tôi. Khi tách tỉnh (10/1991), gia đình tôi đến Tx Cam Đường hôm trước, 3 hôm sau Cô lên thăm ngay

Hoàn cảnh “mẹ goá con côi” nên dù có ở quê mới vẫn không mấy khá giả. Năm 1966 chuyển sang Phong Niên (nền nhà là ao lớn phía sau nhà Bố tôi và cửa nhà bà Hội sau này). Đến khi con rể (Phạm Bá Ruân) tái ngũ lại về Khánh Địa, Sơn Hải (khi ấy thuộc Nông trường Hà Nội) ở cùng con và cháu. Nông trường Phú Xuân đắp đập làm hồ nước dâng cao đường vào khó khăn. Khi con trai lấy vợ, ở riêng thì bà vẫn sống một mình. Thu nhập chủ yếu là rau và hoa quả trong vườn, có ít ruộng.

Cô mất 5 giờ 30 sáng 06-Giêng, Nhâm Thân (Chủ nhật 9/02/1992) sau mấy tháng ốm dài. Hôm cúng 49 ngày có cả Sư thày từ Nam Hà lên làm lễ. Sư lên Chùa bên Phong Niên, tiện dịp, mẹ và dì tôi nhờ sang cúng giúp. Bức ảnh khắc đá gắn trên mộ là ảnh tôi chụp trong dịp cưới Thức-Đào, 12/1988, tôi chỉ ân hận là dịp Cô lên thăm ở nơi tập kết (11/1991, khu Cung ứng, Apatit có ý định chụp ảnh mầu nhưng chưa kịp thực hiện).

Mộ táng tại Khánh Địa, Sơn Hải gần nhà con trai ở. Ngày 27/12/2007 (đêm 18 rạng 19/11 Đinh Hợi): gia đình thực hiện việc cải táng cho cháu Nguyễn Văn Toàn đã kết hợp chuyển Lương Thị Thị ra nghĩa địa chung của thôn.

Cô rất vất vả đường chồng con : 2 lần đò mà cũng không trọn vẹn, sinh nhiều nhưng nuôi đến trưởng thành chỉ còn 2 :

Đời chồng trước người làng Yên Tử, Tiên Lãng, đi lính (làm tới Cai, tục gọi là Cai Tề) và chết trận ở Cao Bằng (kị 23/8). Do kinh tế khó khăn, hoàn cảnh xa quê nên họ mạc ở quê còn ai gia đình con cháu sau này cũng không biết được. Với ông này, bà sinh nhiều bận, đến trưởng thành còn 1 là Phường. Người con gái lớn tên là Gạt (do làm hàng xáo khi xưa cái cân chưa thông dụng, lúc bán gạo chỉ dùng cái gạt để gạt cho bằng mặt thúng). Do đó ở quê hay gọi là cô Gạt, nhưng chị này đã mất sớm. Khi ông Cai Tề mất, LTT đem con về bên ngoại (Làng Hương) buôn bán với mẹ đẻ. Khi tái giá đem theo con gái về Lang Thượng.

Người chồng sau người Lang Thượng, Mĩ Đức, An Lão. Làng này thuộc xã Mĩ Đức, An Lão, cách Làng Hương 3 Km. Đây cũng là bản quán của một số gia đình lên An Phong cùng đợt với nhà tôi 2/1964, trong đó có người sau là bố vợ Lương Đức Luân (ông bà Bùi Văn Diêm). Ông tên là Nguyễn Văn Khuể (Đườn), có anh trai là Đanh, năm 1962 cũng lên Sơn Hải. Bác Đanh lấy 2 vợ sinh ra các anh chị: Nghía (đẻ ra Nguyên, Bạng, Bảo, …), Thành, Ngờ, Mấm, Thư sau này đều ở An Tiến, Sơn Hải. Ông này mất 27 tháng Giêng năm Ất Mùi (19/02/1955). Bố tôi kể rằng ông ốm phải đi điều trị tại BV Kiến An. Khi đó đang CCRĐ quê tôi khá căng. Vì ông nội tôi từng là Lí trưởng, bỏ làng đi từ hơn chục năm, nên bố và chú tôi phải trốn ra Hạ Lũng, không dám ở nhà. Biết tin bác Đườn mất, 2 ông đã bí mật mượn Xich lô chở về Lang Thượng mà không dám nhận là người nhà.Với ông này bà sinh nhiều nhưng lớn lên chỉ còn 1 nam là Tầu, sau đổi là Thanh.

Chị Nguyễn Thị Phường sinh năm 1945, có chồng là Phạm Bá Ruân, bộ đội phục viên người cùng làng. Năm 1962 lên Sơn Hải, Bảo Thắng. Đến 1967 P.V. Ruân tái ngũ và hi sinh năm 1969. Cùng đợt này và biên chế trong Tiểu đoàn Hoàng Liên Sơn 2 cùng với Lương Đức Hỗ và Lương Đức An. Sau này chỉ có Lương Đức Hỗ trở về.

Từ năm 1995 chị Phường chuyển từ Khánh Địa ra An Tiến, Sơn Hải đến 11/2008 BCHTW Đoàn và xã tặng tiền xây nhà tình nghĩa.

Anh chị Ruân- Phường sinh 6 con:

+Mường (chồng là Lý Tài Nguyên, người Dáy ở Bản Cầm, Dược sĩ Đại học) có 1 trai (Trung-SN 1985), 2 gái (sinh đôi). Hai vợ chồng đều làm ở BV B.Thắng.
+Miền: Hai đời chồng (1 LS, 1 bỏ) được 2 gái, mẹ con ở Sơn Hải.
+Tiến: Vợ là Ngạn, được 3 con ở Khánh Địa, Sơn Hải. Trước từng lái máy ủi ở Công trình tuyển quặng, sau nghỉ việc. Mất 22/9/2008 (23 tháng 8 Mậu Tý) sau một thời gian dài nằm viện do rối loạn chức năng gan.
+Quân: mất năm 1991 do bệnh cột sống
+Trường: Vợ là Tâm được 2 con ở Khánh Địa, Sơn Hải đã mất 1.
+Vinh: Vợ là Hường được 1 trai, 1 gái, nhà ở Khánh Địa.

Anh Nguyễn Văn Thanh, SN 1949, thủa nhỏ mọi người trêu là “ngố tầu” và thành tên là Tầu, lớn đổi là Thanh. Hồi nhỏ học kém. Do đó học đến lớp 4 là bỏ. Hồi ấy lớp 4 là hết cấp I. Buồn cười là khi tôi học lớp 2 bên Sơn Hải anh đã học lớp 3, nhưng khi tôi lên Lớp 5 anh mới vào lớp 4. Một lần viết Lý lịch xin đi học Trường TNDT thấy anh đề Tôn giáo: “Nguyễn”, tôi hỏi anh giải thích: mày Tôn giáo Lương thì tao là Tôn giáo Nguyễn chứ còn gì !(?). Cần ghi lại chuyện này để con cháu đời sau cố mà học. Học không phải làm “quan” mà để tự làm chủ được mình, đỡ bị bắt nạt. Từng đi TNXP, Bộ đội nhưng chỉ làm lính. Tháng 12 năm1975, xuất ngũ về Nông trường Phú Xuân, khi NT giải tán làm ruộng tại Khánh Địa, Sơn Hải. Đông con, vụng tính nên cũng chật vật. Tốt bụng nhưng đôi lúc quá “vô tư”, hay “bốc”. Tháng 6/2000 cùng con đi khai thác đá thuê cho X 80 ở Sa Pa. Nổ mìn bị tai nạn bị gẫy 8 Xương sườn, điều trị mãi mới tạm ổn. Cùng ngày còn em vợ Thắng chết tại chỗ, Toàn bị chấn thương sọ não hết BV tỉnh đến BV Việt Đức (tôi nhờ xe TT YT Can Đường) được chẩn đoán là Giập thân não nên đưa về Điều trị tại TTYT Bảo thắng. Tới 5/6 đưa về nhà, hôm sau mất. Có lẽ do tại “số” bởi hôm trước anh Thanh có lên Lào Cai nhưng không đến nhà tôi mà đi chơi với một cán bộ của tôi là Quang. Nếu tôi gặp sẽ nhắc về Phong Niên vì 02/5 là ngày giỗ thím Bính tôi (Thanh gọi bằng mợ).

* Vợ N.V.Thanh là Nguyễn Thị Đê, con ông Đa người Tiên Lãng vốn đã từng lên khai hoang ở Khánh Địa, Sơn Hải đến 1976 về lại quê.

* Anh chị Thanh-Đê sinh 5 con, các cháu đều ít được học hành:

+Thắng: đi BĐ đảo ngũ đã có vợ (Lan-con ông ở cùng Đội) được 3 gái, nhà ở Khánh Địa, Sơn Hải
+Toàn: Vợ tên Thắm người thôn Lạng, Thái Niên (đối diện với Khánh Địa qua sông Hồng) đã có 1 con, sống ở Khánh Địa. Toàn tử nạn tháng 6/2000 để lại vợ và 1 con trai. Vợ Toàn tái giá và sinh được 1 gái (sinh 2007).
+Toản: Đi bộ đội, khi về lấy vợ tên là Nhận người Tuyên Quang, dân tộc Cao Lan. Ban đầu định lập nghiệp tại đó đến 2000 lại chuyển lên Khánh Địa. Tới 2004 lại về Tuyên Quang rồi 2007 lại quay về.
+Sen: Chồng là Gần. Được 2 con, sống ở Xuân Quang (cùng huyện Bảo Thắng).
+Tuyến: vợ là Hợp, được 1 trai, nhà ở Khánh Địa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!