Chữ rằng “sinh quý tử quy”, người đã mất sao cầu gặp được, Nhưng theo lẽ thường đúng kỳ kị nhật thứ 13, lòng thành trưởng Nam soạn lời tế như sau:
Đất thôn ta:
Núi không người đắp, 4 dãy đồi tạo thung lũng An Phong,
Suối chẳng ai đào, 2 nguồn nước cho lúa ngô lúa trổ bông, hoa trái kết.
Hôm nay:
Trời cuối Đông: nhìn cháu con ơn kẻ trồng cây,
Đất đầu xóm, ngắm cơ ngơi nhớ người mở lối.
Con cháu tề tựu quanh đây,
Nén Tâm nhang dâng người tiết liệt.
Nhớ tiên linh xưa :
Sông Úc ươm đất địa linh,
Núi Voi sinh người nhân kiệt.
Quý Hợi ra đời khi ách đô hộ phủ khắp xóm làng,
Sớm trải khó khăn bởi cảnh nhà cùng kiết.
Cha hết ra mỏ lại xuống tầu tìm kế tha phương,
Mẹ vừa xáo xén kiêm gánh gồng suốt ngày xa biệt.
Thủa ấu thơ lúc cắt cỏ chăn trâu, lúc đi ở trông em,
Niềm vui, sự học khi trăng tròn, trăng khuyết.
Buổi cờ sao, nô nức tham gia,
Ngày kháng chiến, thuế tận thu giao đủ.
Đón Hoà bình mở Bình dân học vụ,
Lo làm ăn vẫn văn nghệ say mê.
Khi hôn phối tăng tình thân Phương Lạp - Cốc Tràng,
10 bận gieo được gặt 7 lần gian khó sao kể xiết.
Năm 1964:
Nơi quê mới, mấy nhà chung mái ấm, một mình dạy trẻ, chăm già,
Chốn biên thùy, xây thôn mới với một lòng gan bền chí quyết.
Một thời khai hoang, mặc muỗi độc rừng thiêng,
Mấy thủa dựng xây, dù lúc thua khi thiệt.
Với bác Nhỡ, bác Ơn lo cho An Phong cái ăn, cái mặc vượt khó vươn mình,
Cùng chú Dật, em An hướng vọng quê hương, mở lớp Vở lòng dạy người kế nghiệp.
Rồi từ đó:
Được vợ hiền tần tảo sớm khuya,
Đàn con ngoan học hành tấn tới.
An Phong ngày một chuyển mình,
Gia đình cũng qua thời cùng kiệt.
Nhưng bỗng đâu:
Lửa chiến tranh tái diễn nơi đây,
Kỷ Mùi nhà cháy, vườn hoang lại thử người tiết liệt.
Con: đứa đi học, đứa tòng quân, đứa ở nhà vẫn tuổi dại thơ,
Cùng với vợ lập lại cơ đồ với tâm thành chí quyết.
Thế mới hay:
Để có ngày phú quý, bao công sức đổ xuống mảnh đất này,
Vì sự nghiệp mai ngày, gương vượt khó kể sao cho xiết.
Hôm nay:
Quê hương đổi mới nhờ địa lợi mà bát ngát màu xanh,
Nội lực phát huy lấy nhân hoà để vượt qua thử thách.
7 trái xưa nay thành 7 gia đình dẫu chưa giầu cũng không nỗi bần hàn;
16 cháu- đứa sĩ quan, đứa kĩ sư, đứa giáo viên, đứa vẫn đang trau dồi học vấn.
Trong năm này ông thêm Rể, thêm Dâu;
Đời tứ đại ông đà có chắt.
Người vợ hiền khoẻ mạnh, tinh anh,
Căn nhà cũ vẫn là nơi tụ họp.
Do vậy:
Tạo hoá vốn vô cùng,
Âm dương dù cách biệt.
Nhớ hiển khảo, bát cơm, quả trứng, chén nước, nhành hoa,
Thành tâm cầu Cha về trong vòng tay thân thiết.
Văn tế đôi dòng,
Tâm nhang một nén.
Lòng thành cầu cho anh linh người an giấc ngàn thu,
Tâm sáng mong sao gia sự bình yên, đường dài tới đích!
Xóm làng ơn, mong phù hộ giầu mạnh yên bình,
Cháu con nhớ, quyết noi gương xây vững vàng trong sạch.
Tổ tông muôn năm mãi mãi ngậm cười,
Con cháu vạn xuân đời trung liệt!
Đất thôn ta:
Núi không người đắp, 4 dãy đồi tạo thung lũng An Phong,
Suối chẳng ai đào, 2 nguồn nước cho lúa ngô lúa trổ bông, hoa trái kết.
Hôm nay:
Trời cuối Đông: nhìn cháu con ơn kẻ trồng cây,
Đất đầu xóm, ngắm cơ ngơi nhớ người mở lối.
Con cháu tề tựu quanh đây,
Nén Tâm nhang dâng người tiết liệt.
Nhớ tiên linh xưa :
Sông Úc ươm đất địa linh,
Núi Voi sinh người nhân kiệt.
Quý Hợi ra đời khi ách đô hộ phủ khắp xóm làng,
Sớm trải khó khăn bởi cảnh nhà cùng kiết.
Cha hết ra mỏ lại xuống tầu tìm kế tha phương,
Mẹ vừa xáo xén kiêm gánh gồng suốt ngày xa biệt.
Thủa ấu thơ lúc cắt cỏ chăn trâu, lúc đi ở trông em,
Niềm vui, sự học khi trăng tròn, trăng khuyết.
Buổi cờ sao, nô nức tham gia,
Ngày kháng chiến, thuế tận thu giao đủ.
Đón Hoà bình mở Bình dân học vụ,
Lo làm ăn vẫn văn nghệ say mê.
Khi hôn phối tăng tình thân Phương Lạp - Cốc Tràng,
10 bận gieo được gặt 7 lần gian khó sao kể xiết.
Năm 1964:
Nơi quê mới, mấy nhà chung mái ấm, một mình dạy trẻ, chăm già,
Chốn biên thùy, xây thôn mới với một lòng gan bền chí quyết.
Một thời khai hoang, mặc muỗi độc rừng thiêng,
Mấy thủa dựng xây, dù lúc thua khi thiệt.
Với bác Nhỡ, bác Ơn lo cho An Phong cái ăn, cái mặc vượt khó vươn mình,
Cùng chú Dật, em An hướng vọng quê hương, mở lớp Vở lòng dạy người kế nghiệp.
Rồi từ đó:
Được vợ hiền tần tảo sớm khuya,
Đàn con ngoan học hành tấn tới.
An Phong ngày một chuyển mình,
Gia đình cũng qua thời cùng kiệt.
Nhưng bỗng đâu:
Lửa chiến tranh tái diễn nơi đây,
Kỷ Mùi nhà cháy, vườn hoang lại thử người tiết liệt.
Con: đứa đi học, đứa tòng quân, đứa ở nhà vẫn tuổi dại thơ,
Cùng với vợ lập lại cơ đồ với tâm thành chí quyết.
Thế mới hay:
Để có ngày phú quý, bao công sức đổ xuống mảnh đất này,
Vì sự nghiệp mai ngày, gương vượt khó kể sao cho xiết.
Hôm nay:
Quê hương đổi mới nhờ địa lợi mà bát ngát màu xanh,
Nội lực phát huy lấy nhân hoà để vượt qua thử thách.
7 trái xưa nay thành 7 gia đình dẫu chưa giầu cũng không nỗi bần hàn;
16 cháu- đứa sĩ quan, đứa kĩ sư, đứa giáo viên, đứa vẫn đang trau dồi học vấn.
Trong năm này ông thêm Rể, thêm Dâu;
Đời tứ đại ông đà có chắt.
Người vợ hiền khoẻ mạnh, tinh anh,
Căn nhà cũ vẫn là nơi tụ họp.
Do vậy:
Tạo hoá vốn vô cùng,
Âm dương dù cách biệt.
Nhớ hiển khảo, bát cơm, quả trứng, chén nước, nhành hoa,
Thành tâm cầu Cha về trong vòng tay thân thiết.
Văn tế đôi dòng,
Tâm nhang một nén.
Lòng thành cầu cho anh linh người an giấc ngàn thu,
Tâm sáng mong sao gia sự bình yên, đường dài tới đích!
Xóm làng ơn, mong phù hộ giầu mạnh yên bình,
Cháu con nhớ, quyết noi gương xây vững vàng trong sạch.
Tổ tông muôn năm mãi mãi ngậm cười,
Con cháu vạn xuân đời trung liệt!
-Cẩn cáo-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!