[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


12 tháng 8 2009

PHONG NIÊN quê mới sáng bừng lên

Nằm trên trục đưđường từ Hà Nội lên Lào Cai và cách Lào Cai 30 km, Phong Niên là xã vùng thấp của huyện Bảo Thắng. Nơi đây tiềm ẩn nhiều điều chưa được khám phá.


Khu vực từ 1838 mang tên xã Phong Niên từ xa xưa đã có con người khai phá. Di chỉ được phát hiện năm 1992[1] có niên đại thuộc văn hoá khảo cổ học Sơn Vi đã minh chứng điều đó.


Từ trước thế kỷ XVII, chưa rõ các bản đây có tên là gì. Sau đó vùng đất này có tên là động Hạo Niên 暠年峒 thuộc châu Thủy Vĩ 水尾州 (có Bảo Thắng quan保勝關). Năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) đổi các động 峒 thành xã 社, đổi Hạo Niên thành Phong Niên (豐年= năm được mùa)[2] và thuộc Tổng Gia Phú 加富綜. Gia Phú có 3 xã là: Gia Phú, Phong Niên, Cam Đường và 2 trại là: Phố An, Làng Pha. Xã Phong Niên 豐年社 khi đó rất rộng. Nó bao gồm: Làng Đo, Đo Mán, Hoả Thiêu, Cốc Tâm, Can Hồ Mán, A Nam, A Dụng, Suối Mã, Suối Khê, Đồng Già, Làng Múc, Làng Giàng, Thác Đông, Thác Đông Mán, Làng Sum, Làng Sum Mán, Làng Bái Báo, Làng Thái Niên, Làng A Mán, Tam Hợp Mán, Bắc My Mán, Làng Cung Mán, Phố Thái Niên, Làng Lượt Mán, Suối Mã Mán, Làng An Mán, Phố Mới, Trại Mới, Soi Mười, Sơn Mãn, Giang Đông, Cánh Chín[3].


Khi tỉnh Lào Cai được thành lập (12/7/1907) thì Châu Thủy Vĩ chia thành 2 Châu ở 2 bên sông Hồng. Châu Bảo Thắng 保勝州 bên trái gồm 11 xã là: Cánh Chín, Giang Đông, Lào Cai, Phong Niên, Phố Lu, Phố Mới, Sơn Mãn, Soi Mười, Thái Niên, Trại Mới, Xuân Quang. Địa bàn Phong Niên khi đó đã hẹp đi bởi hình thành các xã mới và không còn lệ vào tổng Gia Phú[4] nữa.


Từ sau 1947, Phong Niên là một xã vùng II của huyện Bảo Thắng, nằm cách trung tâm huyện lỵ 18 km, kéo dài từ Km 17 (Ải Dõng) đến Km 38 (Bắc Ngầm) dọc 2 bên QL4[5] từ Lào Cai đi Bắc Hà.


Khi Pháp tái chiếm toàn bộ Lào Cai (2/1948), Phong Niên trở thành khu du kích có các tổ chức vũ trang hoạt động mạnh mẽ. Sau khi huyện uỷ Bảo Thắng được thành lập (15/10/1948) huyện uỷ đã phân công Nguyễn Đức Thắng sau là Nguyễn Tất phụ trách địa bàn Phong Niên và nơi đây từng là nơi dừng chân của các cơ quan tỉnh, huyện khi bị tấn công mạnh (12/1949), là địa bàn hoạt động của Đại đội Thăng Bình (C670). Trong Chiến dịch Lao Hà (01/3-20/4/1949) một Tiểu đoàn của Trung đoàn 165 do Sơn Tùng chỉ huy đã lấy Phong Niên làm bàn đạp tiến vào bao vây Tx Lào Cai. Sau đó, ngày 10/7/1949 trên đường 4, tại địa phận Cốc Sâm, bộ đội C946 đã phục kích diệt 4 lính Pháp, 2 lính nguỵ. Từ đó hoạt động võ trang ở Phong Niên phát triển mạnh, phân tán lực lượng địch. Khu căn cứ này vững vàng sau cả trận càn khốc liệt 7,8/1950 và cùng quân dân cả tỉnh phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch, giải phóng hoàn toàn Lào Cai trong đợt hai Chiến dịch Lê Hồng Phong (9-11/1950).


Giai đoạn 1951-1954, Phong Niên đã góp nhiều công sức trong các cuộc tiễu phỉ, truy bắt biệt kích nhẩy dù. Đặc biệt trận đánh tan tốp 93 tên phỉ từ Mường Khương, Bắc Hà tràn xuống ngày 09/4/1951 hay làm hạn chế hoạt động của 4 tên biệt kích nhẩy dù xuống Phong Niên ngày 10/01/1954.


Trong 2 cuộc Chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mĩ, Phong Niên không bị ném bom, chỉ có máy bay không người lái bay qua nhiều lần để trinh sát và rải truyền đơn (ngày 21/9/1967 truyền đơn xuyên tạc Cách mạng văn hóa TQ và chia rẽ tình hữu nghị Việt-Trung xuất hiện ở khu Cốc Sâm, An Phong). Nhưng vì xa tỉnh, huyện lị nên không có cơ quan nào sơ tán về đây. QGPND Trung Quốc sang giúp Việt Nam làm đường đóng dọc 2 bên Quốc lộ 4 và có những ảnh hưởng nhất định đến bộ mặt của xã[6]. Chính QGPNDTQ còn để lại đây 1 Nghĩa trang bên trái km 35+500 và một số khu lán trại sau trở thành nhà ở của dân, kho, chuồng trại của HTX. Đây là những năm tháng mà Phong Niên đạt được nhiều thành tích, đã từng được chọn điểm về xây dựng nông thôn và phát triển giáo dục.


Đến năm 1966 Bộ trưởng Bộ Nội vụ có Quyết định số 307/QĐ-NV ngày 20 tháng 9 năm 1966 tách Phong Niên thành 2 xã Phong Niên (8 thôn, bản) và xã Phong Hải (7 thôn, bản) với ranh giới tại Km 30+600, là đường phân thủy giữa lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Chẩy.


Cuộc chiến 02/1979 diễn ra dọc xã và có điểm rất ác liệt, là xã cuối cùng theo tuyến đường 7 mà quân TQ tràn qua (ngày 22/02). Khi đó, đại bộ phận nhân dân sơ tán (người khai hoang về quê, dân bản địa rút về tuyến sau), số ở lại chủ yếu người vùng cao, già yếu. LLVT địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực đã góp phần tiêu hao nhiều sinh lực đối phương. Một trong những trận thắng lớn của quân dân Lào Cai trong cuộc chiến này diễn ra tại Km 37, trận ấy các chiến sĩ C30 đã tập kích vào khu vực tập kết của đối phương diệt 400 tên, bắn cháy 7 ô tô. Sau khi quân TQ rút (08/3), nhân dân trở lại tiếp tục khôi phục sản xuất và không có tranh chấp tài sản, ruộng đất gay gắt như ở một số nơi.


Trong thời kì đổi mới Phong Niên đã có những cố gắng mới, vươn lên. Xã đã có chợ, có Trường Tiểu học, trường THCS, đường liên thôn đã vươn tới khắp thôn bản. Nhiều vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế chính trị được cải thiện. Song so với xã bạn Xuân Quang, Phong Hải thì kinh tế kém hơn. Đến năm 2003 Phong Niên có diện tích 4.303 ha, dân số 5.839 người với gần 1.300 hộ dân nhưng chỉ có trên 100 ha lúa nước cấy 2 vụ, tập trung chủ yếu ở 12 thôn vùng thấp, còn 9 thôn vùng cao, ruộng nước ít, nguồn thu chính của bà con là từ trồng ngô trên sườn đồi, núi đá. Tình hình ANTT có những phức tạp mới. Đặc biệt việc du canh, du cư, việc tuyên truyền Đạo Tin lành trái phép hay buôn bán ma túy. Trong đó Làng Có trở thành điểm nóng về ma tuý không kém Nà Ư của Điện Biên.


Phong Niên là địa bàn cư trú của người bản địa là Tầy, Nùng. Người Kinh lên trong những năm 60, 70 Thế kỉ XX sống ở vùng thấp, ven đường. Các cư dân khác (Hán, HMông, Dao, Phù Lá) từ Trung Quốc, Bắc Hà, Mường Khương di đến trong Thế kỉ XIX và XX. Con đường quốc lộ 70 chạy qua chia đôi dọc xã với chiều dài là 7km. Phía Tây Bắc Phong Niên giáp Phong Hải, phía Tây giáp Thái Niên, Tây Nam và phía Nam giáp Xuân Quang thuộc huyện Bảo Thắng, phía Đông giáp Bảo Nhai, phía Bắc giáp xã Cốc Ly thuộc huyện Bắc Hà. Xã có 19 thôn bản, có thôn mới do dân khai hoang lên (ở riêng biệt hay xen kẽ) lập ra như Tân Phong, An Phong, Vĩnh Hồ[7]; có bản sau này người Mông từ Bắc Hà xuống lập nên như Phìn Giàng (坪羊, Bằng Dương tức bãi đất trên cao); có bản do người Tầy, người Dao lập từ trước như: Cốc Tủm, Cốc Sâm, Làng Có, Cán Hồ, Làng Cung, Sả Hồ[8]. Xã có 5.839 người, trong đó 6 thôn đặc biệt chỉ có một dân tộc sinh sống, như các thôn Cán Hồ là dân tộc Dao Tuyển, các thôn Phìn Giàng, Tân Hồ, 3 Làng Có toàn dân tộc HMông. Tuy có diện tích rộng (4.303 ha), có đường Quốc lộ chạy qua nhưng bị chia cắt phức tạp bởi núi đá, địa hình lại dốc, khe, suối nhỏ nên canh tác gặp nhiều khó khăn. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông lâm nghiệp. Trong đó sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập chính của người dân là cây lúa, ngô, mía, một số hoa màu và cây ăn quả[9].

-*-

[1] Tại Bắc Ngầm, gồm tám công cụ: hai chiếc rìu lưỡi ngang có nhiều vết đẽo nhỏ cẩn thận, bốn chiếc rìu lưỡi dọc và hai chiếc mũi nhọn được chế tạo từ những viên cuội hình bầu dục. Ngoài ra còn tìm thấy một hòn cuội to lạ được ghè ba mặt. Xung quanh viên cuội này còn tìm được 21 mảnh tước.
[2] Kinh Thi có câu: 豐年,秋冬報也 ("Phong niên, thu đông báo dã", tức “Năm được mùa, mùa thu mùa đông báo tin cho”). Tên làng xã được đặt với mong muốn được mùa, như Phong Lẫm 豐廩, Phong Mỹ 豐美.
[3] Theo cuốn “Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ” do Cục Lưu trữ Quốc gia xuất bản 1999 tôi tìm thấy và Download được trên mạng về thì: Chữ Hán-Nôm các Làng, Phố trên thứ tự kể trên là: 廊𡳢,廊𡳢蠻,火燒,谷心,干胡蠻,亞南,亞用,𤂬馬,𤂬溪,同𦓅,沙公胡蠻,廊木,廊洋,托東,托東蠻,廊森,廊森蠻,廊拜報,廊太年,廊安蠻,三合蠻,北眉蠻廊供蠻,庫賓,寨賓,庫太年,廊𦀎蠻,𤂬馬蠻,廊安蠻,鋪買,寨買,𤐝𨒒,山滿,江東,𦑃𠃩 . Như vậy Phong Niên khi đó bao gồm cả bên tả ngạn thành phố Lào Cai và xã Thái Niên, Phong Hải nay. Xem trong địa danh rất nhiều tên Nôm lẫn tên Hán gốc tiếng Tầy lẫn gốc tiếng Mông-Dao và nhất là nhiều địa danh kèm từ “Mán” phải chăng ngày đó người Dao chiếm tỉ lệ cao. Từ sau 1986, người Mông từ Bắc Hà xuống cư trú nhiều các thôn rẻo cao, người Dao chỉ còn lại ở làng Cung, My...
[4] Lúc đó Gia Phú thuộc châu Thuỷ Vỹ 水尾 bên hữu ngạn sông Hồng.
[5] Đường đất QL4 có từ thời 9 năm, được TQ giúp mở rộng, hạ dốc, nắn cua, kéo dài tới Phố Ràng, nói thông với Yên Bái từ 1967 và được đổi là Đưỡng Hữu Nghị 7. Sau 2/1979 đặt lại thành Quốc lộ 70.
[6] Chính vì vậy mà ngày đó lứa chúng tôi đang học lớp 3, 4 ngày đó đã thuộc lòng bài hát ca ngợi mối tình Việt Hoa: "Việt Nam Trung Hoa sơn liên sơn, giang liên giang, cộng lâm Đông Hải ngã môn hữu nghị tượng triều dương..." (越南中花山联山,江联江, 共临東海们友誼像朝扬), tức "Việt Nam Trung Hoa núi liền núi sông liền sông, chung một Biển Đông mối tình hữu nghị giống như rạng đông"...
[7] Mỗi địa danh gồm 2 thành tố: Từ chỉ quê gốc (Tân Liên, An Lão, Vĩnh Bảo) và từ chỉ nơi mới đến (Phong Niên, Sả Hồ).
[8] Đối chiếu với địa danh cũ được ghi bằng chữ Hán lưu tại Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước mà tôi kê cứu được thì nhiều địa danh cần phiên âm lại. Ví dụ Cốc Tủm chắc là từ Cốc Tâm hay là từ Nôm chỉ nơi đây nhiều Mạc Tủm, một loại cây mọc ven suối quả tó, ăn hơi chua. Hay Cán Hồ và Xả Hồ, chắc chắn là tên do người Dao đặt (tiền tố Cốc là do người tày đặt) nên phải chăng là Sán Hồ (山河,Sơn Hà tức suối hay ao trên)hay Can Hồ (干胡, Can Hồ tức gốc cây ở xa) và Sả Hồ (下河,Hạ Hà tức suối hay áo dưới) chỉ ao Ông và ao Bà ở vùng này ?
[9] Có sử dụng tư liệu trong Khoá luận tốt nghiệp TCCT viết năm 2004 của Lương Đức Luân.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!