Con người, cũng như vạn vật đều không thể “trường sinh” mà có sinh có tử. Nhưng quan niệm về cái chế và xử lý thi xác đâu phải đã sớm thống nhất. Nó biến chuyển theo thời gian, theo địa lý, theo tôn giáo, dân tộc…
1. Hiểu biết về sự chết: 1
Cách diễn đạt sự “chết”. 1
2. Định nghĩa cái chết trong một số lĩnh vực: 2
3. Xác định cái chết: 4
4. Phản ứng của con người với cái chết 6
5. Vấn đề “cái chết êm ái”. 6
6. Vấn đề linh hồn: 7
7. Những hệ quả về sinh lý học của sự chết ở người 7
8. Tình cảm với người vừa chết : 8
9. Việc xử lý thi xác : 9
Sự sống và sự chết của con người hay của chúng sanh đều theo luật: Thành (成, hình thành), Trụ (柱, tồn tại duy trì), Hoại (壞, hư hỏng), Không (空, tiêu mất). Đó chính là quy luật tiến hóa của vũ trụ. Khi xác thân già nua không còn đủ sức tiến hóa nữa thì chết để linh hồn chuyển qua một xác thân mới tiếp tục tiến hóa. Do đó mới có câu “Hữu sanh hữu tử” 有生有死. Lại có câu Sinh ký tử qui 生寄死歸, tức là sống gởi thác về. Quan niệm về triết lý nhân sinh rất phổ biến ở Á Đông, cho rằng đời sống của con người nơi cõi trần chỉ là một giai đoạn ngắn tạm thời trong suốt một cuộc sống bất tận thiệt thọ của con người nơi cõi TLHS. Con người đầu kiếp xuống cõi trần chỉ tạm trong thời gian nhiều lắm là trăm năm để công tác hoặc học hỏi thêm và tiến hóa.
Chết thông thường được xem là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật. Tuy nhiên, một định nghĩa cho sự chết còn tùy thuộc vào các quan điểm tôn giáo, tín ngưỡng cũng như các lĩnh vực liên hệ. Trong y học, chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống. Môn khoa học nghiên cứu về cái chết đã trở thành ngành riêng gọi là “tử vong học” (tiếng Anh: thanatology; tiếng Hy Lạp: θάνατολογια thnatologia).
Cách diễn đạt sự “chết”
Trong hầu hết các xã hội, cái chết thường được gắn liền với một số biểu tượng nào đó. Ở nhiều nền văn minh phương Đông, màu trắng là màu của tang chế; ngược lại, ở phương Tây, màu tang là màu đen, biểu tượng của cái chết là vị thần chết với chiếc lưỡi hái nổi tiếng. Mồ mả cũng là những hình ảnh hoán dụ thường gặp khi đề cập đến cái chết.
Dưới góc độ sinh học, cái chết có thể xảy ra cho toàn bộ cơ thể hoặc chỉ một vài thành phần của cơ thể. Thí dụ, một số tế bào riêng lẻ hoặc thậm chí một vài cơ quan có thể chết, trong khi cơ thể, với tư cách là một tổng thể, vẫn tiếp tục sống. Trong cơ thể sinh vật, rất nhiều tế bào có tuổi thọ rất ngắn so với đời sống của cơ thể, chúng chết đi và được thay thế bởi các tế bào mới - đó là quá trình đổi mới thường xuyên các tế bào, một đặc điểm sinh lý của các cơ thể đa bào.
Ngược lại, khi một cơ thể chết đi, các tế bào của nó chỉ có thể sống thêm một giai đoạn ngắn. Các cơ quan có thể được lấy ra khỏi cơ thể để thực hiện việc ghép tạng - trong trường hợp này, tạng được ghép phải nhanh chóng đem ghép, nếu không nó sẽ chết do không được cung cấp các chất cần thiết để duy trì hoạt động sống. Trong một số hiếm các trường hợp, tế bào có thể “bất tử”, chẳng hạn dòng tế bào Hela (tức Henrietta Lacks, một bệnh nhân đã hiến các tế bào của cơ thể mình cho khoa học).
Dưới góc độ sinh học, cái chết có thể xảy ra cho toàn bộ cơ thể hoặc chỉ một vài thành phần của cơ thể. Thí dụ, một số tế bào riêng lẻ hoặc thậm chí một vài cơ quan có thể chết, trong khi cơ thể, với tư cách là một tổng thể, vẫn tiếp tục sống. Trong cơ thể sinh vật, rất nhiều tế bào có tuổi thọ rất ngắn so với đời sống của cơ thể, chúng chết đi và được thay thế bởi các tế bào mới - đó là quá trình đổi mới thường xuyên các tế bào, một đặc điểm sinh lý của các cơ thể đa bào.
Ngược lại, khi một cơ thể chết đi, các tế bào của nó chỉ có thể sống thêm một giai đoạn ngắn. Các cơ quan có thể được lấy ra khỏi cơ thể để thực hiện việc ghép tạng - trong trường hợp này, tạng được ghép phải nhanh chóng đem ghép, nếu không nó sẽ chết do không được cung cấp các chất cần thiết để duy trì hoạt động sống. Trong một số hiếm các trường hợp, tế bào có thể “bất tử”, chẳng hạn dòng tế bào Hela (tức Henrietta Lacks, một bệnh nhân đã hiến các tế bào của cơ thể mình cho khoa học).
Tóc và móng có vẻ mọc dài thêm sau khi chết, thật ra, khi xác chết bị mất nước (bắt đầu “khô đi”), mô mềm co rút lại làm lộ ra phần tóc và móng chưa mọc. Thời cổ đại, chuyện này khiến người ta xác định nhầm lẫn thời điểm chết thật sự, và thêu dệt thêm vào đó để thành các truyền thuyết về ma cà rồng.
2. Định nghĩa cái chết trong một số lĩnh vực:
Cái chết của con người có thể được định nghĩa bởi ba lĩnh vực khác nhau nhưng cũng chồng lấn lẫn nhau: y học, tôn giáo và pháp lý. Cả ba lĩnh vực đã phát triển rất nhiều theo thời gian và ý nghĩa của từng lĩnh vực đó đối với từng cá nhân cũng khác nhau. Do đó, khi bàn về cái chết, điều quan trọng là phải xác định rõ là cái chết đang được xem xét dưới dưới góc độ nào, cũng như cần phải có một kiến thức tổng quát về cách nhìn nhận cái chết của mỗi cá nhân.
Trong y học, có nhiều định nghĩa khác nhau về cái chết. Ở phương Tây trước đây, sự chết đã được gắn với tim và sau đó là phổi. Khi tim và phổi của một người ngừng hoạt động, người đó được xem là đã chết. Về sau, não được đưa vào định nghĩa. Năm 1963, điện não đồ (EEG) được phát minh, phương tiện này có khả năng đo rất chính xác các dòng điện phát ra từ não. Nếu máy điện não đồ ghi nhận một dòng điện bằng không (nói cách khác là một EEG phẳng) trong 36 giờ, người bệnh có thể được xem là đã chết. Hiện nay, chúng ta biết rằng về mặt y học, một người còn sống nếu thân não của người đó chưa chết. Nhiều người bị rơi vào đời sống thực vật, thân não của họ vẫn còn hoạt động.
Về mặt pháp lý, có ba cách khác nhau để tuyên bố rằng một người đã chết. Thông thường nhất là việc xác nhận cái chết bởi một bác sĩ. Cách thứ hai là xác nhận bởi một nhân viên điều tra hay chuyên viên khám nghiệm y khoa của nhà nước. Cách thứ ba là tuyên bố chết bởi các tòa án: sau khi một người bị mất tích một thời gian nhất định, tòa án có thể tuyên bố rằng người đó đã chết và tài sản của người chết sẽ được phân chia theo luật định. Giấy chứng tử là một văn bản nêu ra thời điểm, tính chất của cái chết cũng như tên và chức năng người chứng nhận cái chết đó.
Theo quan điểm tôn giáo, sự chết được tin là do linh hồn rời khỏi thể xác. Nhiều thí nghiệm đã được đặt ra nhằm xác định khi nào thì hồn rời khỏi xác, chẳng hạn người ta cân cơ thể trước và sau khi chết (linh hồn, nếu có, biết đâu cũng có một trọng lượng nào đó). Trong một phần sau, bài viết sẽ trình bày các quan niệm về điều gì sẽ xảy ra cho một người sau khi chết.
Quan điểm của Phật gíao coi sự chết là Tử (zh. sĭ 死, ja. shi, sa., pi. maraṇa), là sự sinh diệt, thăng trầm của tất cả các hiện tượng, các Pháp.
Sự “sinh đây diệt đó” hoặc “khoảnh khắc của hiện hữu” được vị Đại luận sư Phật Âm (pi. buddhaghosa) diễn tả rất hay trong bộ luận Thanh tịnh đạo: “Theo chân lí tuyệt đối thì chúng sinh chỉ hiện hữu trong một thời gian rất ngắn, một thời gian ngắn như một khoảnh khắc của nhận thức (một ý niệm, Sát-na, sa. kṣaṇa). Như một bánh xe, trong khi đang lăn cũng như đang đứng yên, chỉ chạm đất ở một điểm duy nhất, như thế, chúng sinh chỉ sống trong một khoảnh khắc của một nhận thức. Nhận thức này (ý niệm) mất đi, chúng sinh đó chết. Bởi vì chúng sinh của nhận thức vừa qua đã sống, không sống bây giờ và cũng sẽ không sống trong tương lai. Chúng sinh của nhận thức bây giờ đang sống, đã không sống và sẽ không sống trong tương lai. Chúng sinh của nhận thức trong tương lai sẽ sống, đã không sống và hiện tại không sống.”
Đạt-lại Lạt-ma thứ 14, Đăng-châu Gia-mục-thố, luận giải cụ thể hơn về cái chết như sau (trích từ luận giải của Đạt-lại Lạt-ma về Bồ-đề đạo thứ đệ trung luận của Tông-khách-ba): “… Nhiều người chết khi những nghiệp lực được tạo ra trong kiếp trước, điều kiện chính cho cuộc sống này, hoàn toàn bị dập tắt; những người khác chết bởi vì các nguyên nhân lưu trì cuộc sống này không còn đầy đủ… Người ta gọi như vậy là ‘chết sớm’ hoặc ‘chết vì Công đức đã hết’, bởi vì năng lực lưu giữ cuộc sống vẫn còn (nhân 因) nhưng những duyên (緣, điều kiện phụ) đạt được qua những thiện nghiệp trong đời trước đã hết...
Những người mang tâm bất thiện, hành động bất thiện thì khi chết, phần thân trên mất nhiệt trước, rồi sau đó những thân phần còn lại mới lạnh dần dần. Ngược lại, những người thường hay làm điều thiện thường mất nhiệt ở thân dưới, bắt đầu từ hai bàn chân. Trong cả hai trường hợp thì hơi nóng được gom tụ lại ở ngực (tâm) và từ nơi này, thần thức xuất thân…
Trực tiếp kế đó là trạng thái Trung hữu (zh. 中有, sa. antarābhava). Chỉ những người tái sinh trong bốn xứ của vô sắc giới (Tứ thiền bát định, Tam giới) như Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ mới không bước vào trạng thái trung hữu này; cuộc sống mới của họ bắt đầu ngay sau cái chết. Những người tái sinh trong Dục giới (sa. kāmadhātu) và Sắc giới (sa. rūpadhātu) phải trải qua quá trình trung hữu và trong quá trình này, thần thức tồn tại dưới dạng sau này sẽ tái sinh. Thân trung hữu có tất cả những giác quan thông thường, có Thiên nhãn thông, có thể vượt qua tất cả những chướng ngại và xuất hiện khắp nơi tuỳ ý. Thân này thấy được những thân trung hữu đồng loại—Địa ngục, Ngạ quỷ, súc sinh, nhân loài, A-tu-la và chư Thiên—và ngược lại, thân này cũng có thể được những người có thiên nhãn nhận ra.
Nếu thân trung hữu không tìm được nơi tái sinh tương ưng với những nghiệp đã tạo thì nó chết một cái chết nhỏ sau bảy ngày, bước vào một giai đoạn trung hữu khác. Quá trình này chỉ có thể lặp lại nhiều nhất là 6 lần và thần thức chỉ có thể ở trong giai đoạn trung hữu 49 ngày (7 tuần). Như vậy có nghĩa là, những thần thức tự nhận sau một năm chưa tìm được nơi xứng đáng để tái sinh không còn ở trong trạng thái trung hữu nữa mà đã tái sinh thành một oan hồn, ngạ quỷ.
Ai tái sinh thành người trở lại thì thấy cha mẹ tương lai đang nằm chung với nhau. Người nào tái sinh thành nam giới thì phát lòng ái mộ bà mẹ, căm ghét người cha khi thấy cảnh trên; người nào tái sinh thành nữ giới thì phát tâm ngược lại. Bị dục ái thúc đẩy, thân trung hữu nhào đến cảnh giới trên và tìm cách giao phối với người mình yêu thích. Nhưng khi đến nơi thì thần thức chỉ thấy được bộ phận sinh dục của người đó và vì thế trở nên phẫn nộ. Tâm trạng phẫn nộ này chính là yếu tố gián đoạn trạng thái trung hữu; thần thức đã bước vào tử cung của mẹ, một cuộc sống mới đã bắt đầu. Khi tinh của cha, huyết của mẹ và thần thức hợp lại nhau thì chúng phát triển thành những yếu tố tạo thành một con người mới…
Móc nối tiếp giữa cuộc sống hiện tại và tương lai được tạo dưới sự ảnh hưởng của Ba độc là tham, sân và Si. Khi ba độc này chưa được tiêu diệt thì con người còn bị trói buộc. Tái sinh có tốt có xấu, nhưng khi còn bị trói buộc, người ta phải mang gánh nặng của Ngũ uẩn… Nếu muốn diệt cái Khổ của sinh, lão, bệnh, tử thì trước hết, người ta phải diệt ba độc căn bản nêu trên. Nguồn gốc của chúng lại là Vô minh (sa. avidyā)—là kiến giải sai lầm rằng, con người và những hiện tượng khác đều mang một tự tính, tự ngã. Những liều thuốc có thể giảm được phần nào những chứng bệnh bên ngoài, nhưng chúng không thể giải được vấn đề chính. Các cách tu tập nội tâm—ví dụ như tu luyện những cách chống đối lại tham, sân—có thể giúp ích hơn, nhưng chúng cũng chỉ là những phương tiện tạm thời. Chỉ khi nào vô minh—cội rễ của chúng—được đoạn diệt thì chúng mới tự huỷ diệt…”.
3. Xác định cái chết:
Xác định chính xác thời điểm chết có ý nghĩa quan trọng vì nhiều lý do. Nó giúp cho giấy chứng tử ghi nhận được thời gian chính xác, cũng như để đảm bảo rằng các nguyện vọng của người quá cố được thực thi sau khi người đó thật sự đã qua đời. Nó đặc biệt quan trọng trong trường hợp hiến cơ quan, bởi lẽ tạng đem ghép phải được lấy ra khỏi cơ thể người chết càng sớm càng tốt.
Trong lịch sử, các cố gắng để xác định thời điểm chết một cách chính xác luôn là đề tài gây tranh cãi. Đã có lúc, cái chết được tính từ lúc tim ngừng đập (ngưng tim) và phổi ngừng thở, nhưng sự phát triển của kỹ thuật hồi sức tim phổi cũng như kỹ thuật phá rung đã đề ra một thách thức mới: hoặc là định nghĩa về cái chết là sai, hoặc là con người có thể cải tử hoàn sinh (bởi vì, trong một vài trường hợp, việc hồi sức làm cho tim, phổi hoạt động trở lại). Hiển nhiên, quan điểm thứ nhất đã được lựa chọn. Hiện nay, trạng thái ngưng tim ngưng thở được gọi là chết lâm sàng.
Ngày nay, khi cần xác định chính xác thời điểm chết, bác sĩ và điều tra viên thường căn cứ vào “chết não” hay “chết sinh học”: một người được xem là chết nếu không còn hoạt động điện não. Người ta giả định rằng sự ngưng hoạt động điện não là dấu hiệu chấm dứt ý thức.
Hoạt động não là điều kiện cần của sự tồn tại của một cá nhân về mặt pháp lý, và có lẽ chỉ trừ các phôi thai, nó cũng đồng thời là điều kiện đủ. “Một khi sự chết não đã được khẳng định, việc ngưng sử dụng các thiết bị hỗ trợ sự sống không cấu thành một tội dân sự hay hình sự”. (Dority, tại tòa án tối cao hạt San Bernardino, 193 Cal.Rptr. 288, 291 (1983)).
Tuy nhiên, có những người lý luận rằng chỉ có vỏ não mới có chức năng ý thức, cho nên chỉ cần hết hoạt động điện của vỏ não thì có thể xem là chết. Ở hầu hết mọi nơi, một định nghĩa bảo thủ hơn về cái chết được áp dụng (khi toàn bộ các phần của não đều đã ngưng hoạt động điện, không riêng gì vỏ não) - chẳng hạn theo mẫu khai tử thống nhất của Hoa Kỳ. Năm 2005, trường hợp cô Terri Schiavo đã khiến cho vấn đề chết não và duy trì sự sống nhân tạo được tranh cãi gay gắt giữa các nhà làm luật Hoa Kỳ. Trong nhiều trường hợp, nguyên nhân chung của cái chết là do thiếu ôxy trong máu.
Ngay cả khi dùng điện não, việc xác định cái chết cũng khó khăn. EEG có thể ghi nhận một tín hiệu giả trong khi não đã thực sự ngưng hoạt động, hay ngược lại, não còn sống, nhưng hoạt động điện của nó thấp hơn ngưỡng ghi nhận của máy. Vì lý do này, các bệnh viện thường thiết lập một quy trình để xác nhận cái chết trong đó bao gồm EEG ghi nhận trong những khoảng thời gian khác nhau.
Lịch sử y học còn ghi nhận nhiều giai thoại về những người được các thầy thuốc chứng tử nhưng sau đó đã sống lại - khi đang được ướp xác hoặc sau vài ngày nằm trong quan tài. Các chuyện kể về những người bị chôn sống (với xác không được ướp trước khi chôn) đã tạo tiền đề cho ít nhất là một nhà sáng chế trong thế kỷ 20 thiết kế ra một hệ thống báo động có thể được kích hoạt từ trong quan tài.
Do những khó khăn khi xác định cái chết, trong nhiều phát đồ cấp cứu, người đầu tiên tham gia cấp cứu không được phép tuyên bố rằng bệnh nhân đã chết; một số tài liệu huấn luyện cấp cứu y khoa đã chỉ rõ rằng một người không bị xem là chết nếu không có những dấu hiệu rõ ràng, hiển nhiên của cái chết, chẳng hạn như đầu lìa khỏi thân, co cứng tử thi (rigor mortis), hồ máu tử thi (livor mortis), xác bị phân hủy hoặc bị thiêu cháy. Khi nạn nhân còn bất cứ khả năng sống sót nào và không có y lệnh “không hồi sức”, nhân viên cấp cứu phải lập tức bắt đầu cấp cứu và không được kết thúc việc cấp cứu cho đến khi bệnh nhân được nhập viện. Đến nơi, nếu bác sĩ xác nhận bệnh nhân đã chết, bệnh nhân được tuyên bố là “chết trên đường đến bệnh viện”.
Tiêu chuẩn để tuyên bố một người là chết thường được quy định bởi các ủy ban cấp nhà nước, tùy từng nước. EEG không là một xét nghiệm đại trà, trên thực tế, người ta hay dựa vào các triệu chứng như mất ý thức, ngưng thở, mất mạch, đồng tử giãn và không phản xạ với ánh sáng, điện tâm đồ (ECG) phẳng v.v.
4. Phản ứng của con người với cái chết
Về cơ bản, con người tham sống sợ chết, tuy nhiên, trong những hoàn cảnh nhất định, nhiều người có thể hi sinh sự sống của mình vì người khác, vì cộng đồng. Cũng có những người tự tìm đến cái chết do bệnh tâm thần hoặc bế tắc trong cuộc sống.
Theo tác giả Elisabeth Kübler-Ross, diễn tiến tâm lý của một người sắp chết gồm 5 đặc điểm:
Chối bỏ thực tế (“không thể tin là mình sắp chết”)
Nổi giận, nổi loạn (“tại sao tôi phải chết ?”)
Mặc cả với số phận (“sao lại là tôi, nhiều người xấu hơn tôi vẫn được sống kia, tôi đã làm nhiều việc tốt nên tôi phải được sống”)
Trầm cảm
Buông xuôi, chấp nhận.
Năm đặc điểm đó không phải lúc nào cũng thể hiện đầy đủ, trật tự xuất hiện cũng không cố định. Chúng có thể xuất hiện riêng lẻ hoặc đồng thời.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp, con người đón nhận cái chết một cách dễ dàng hơn.
5. Vấn đề “cái chết êm ái”
Có những người bị tai nạn nghiêm trọng hoặc mắc những bệnh hiểm nghèo như ung thư giai đoạn cuối, phải sống đời sống thực vật hoặc chịu đau đớn kéo dài. Khả năng của y học trong tương lai gần hầu như không thể phục hồi được sức khỏe cho họ, nên việc tạo ra một cái chết êm ái để “giải thoát” cho những bệnh nhân đó cũng như giảm bớt những chi phí đắt tiền cho xã hội đã được xem xét và thể chế hóa ở vài nước (Hà Lan, Tây Ban Nha v.v.).
Việc thực hành “cái chết êm ái” gặp sự phản đối mạnh mẽ của nhiều người, họ cho rằng đó là hành vi giết người (cho dù nó có phù hợp với nguyện vọng của bản thân người bệnh).
6. Vấn đề linh hồn:
Vấn đề thứ nhì được đặt ra là, không kể sự chấm dứt các quá trình chuyển hóa và sự bắt đầu các tiến trình phân hủy xác, điều gì sẽ xảy ra, nhất là đối với con người, trong và sau khi chết? Chủ đề được đặc biệt quan tâm là ý thức và linh hồn; những câu hỏi vốn “xưa như trái đất”. Niềm tin vào một cái gì đó tiếp tục sau khi chết cũng phổ biến từ xưa, chẳng hạn một thế giới của người chết (âm ty, âm phủ, cõi âm), hoặc tái sinh, đầu thai vào kiếp sau. Những người theo chủ nghĩa vô thần hoặc thuyết bất khả tri thì tin rằng cái chết đặt dấu chấm hết cho ý thức, bản thân cái chết (“kiếp sau”) xét cho cùng cũng chính là sự trải nghiệm về những gì có trước thụ thai (“kiếp trước”)(?). Trái lại, niềm tin tôn giáo và những thông tin về sự sống sau khi chết là sự an ủi có liên hệ tới cái chết của những người thân yêu và viễn ảnh về cái chết của chính bản thân mỗi người. Mặc khác, nỗi lo sợ về địa ngục cũng như những hệ quả đen tối khác cũng khiến cho cái chết trở nên quái ác hơn. Nỗi ưu tư của con người về cái chết cũng là một động lực quan trọng cho sự phát triển của các tôn giáo.
Tập tục của hầu hết các nền văn hóa là khóc thương những người thân yêu đã chết. Nhiều nhà khảo cổ cho rằng việc chôn cất cẩn thận của người Homo neanderthalensis, với những xác chết được trang điểm bằng đất son và xếp cẩn thận trong hang là bằng chứng của những tang lễ có nghi thức. Điều này có thể cho thấy trong các tín ngưỡng ban sơ của con người đã có cả những ý niệm về kiếp sau.
Tín ngưỡng dân gian tin vào linh hồn, người chết rồi thì linh hồn sẽ sống ở cõi âm, cũng sinh hoạt như ở dương thế, do đó có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, đầy tớ, áo quần, tiền, đô la âm phủ v.v. để “viện trợ” cho người chết. Rằm tháng bảy âm lịch, trùng với lễ Vu Lan của Phật giáo, là ngày xóa tội vong nhân, người ta cúng cô hồn để bố thí thức ăn cho những hồn ma lang thang. Cúng cô hồn không chỉ có ngày rằm tháng bảy.
7. Những hệ quả về sinh lý học của sự chết ở người
Đối với cơ thể người, những hệ quả sinh lý của sự chết là một chuỗi những biến đổi: sớm như trương phình lên, sau đó là sự phân rã, tiếp theo là những biến đổi sau phân rã, cuối cùng, chỉ có bộ xương là tồn tại lâu nhất.
Những biến đổi của giai đoạn ngay sau khi chết nhận được sự chú ý nhiều nhất vì hai lý do - thứ nhất đó là giai đoạn được người sống nhìn thấy nhiều nhất và thứ nhì là bởi những nghiên cứu pháp y trong các nghi án.
Giai đoạn sớm sau khi chết (15–120 phút tùy nhiều yếu tố), xác trở nên mát lạnh (mát lạnh tử thi - algor mortis), trở nên tái nhạt (tái nhạt tử thi - pallor mortis), các cơ vòng giãn ra, dẫn đến việc tống xuất nước tiểu, phân, những gì chứa trong dạ dày cũng trôi ra ngoài nếu xác bị di chuyển. Máu dồn xuống tạo thành các hồ ở phần thấp của xác (theo trọng lực) gọi là hoen tử thi (livor mortis) trong vòng 30 phút và bắt đầu đông lại. Các cơ co lại tạo nên co cứng tử thi (rigor mortis) với đỉnh điểm là 12 giờ sau khi chết và kết thúc 24 giờ sau khi hình thành, tùy vào nhiệt độ môi trường. Trong vòng một ngày, bắt đầu có các dấu hiệu phân hủy (phân rã), cả do cơ chế tự hủy lẫn do sự tấn công của vi sinh vật, nấm, côn trùng, thú vật v.v. Bên trong cơ thể, các cấu trúc bắt đầu sụp đổ, da mất sự liên kết với các mô bên dưới, hoạt động của vi khuẩn sẽ sinh hơi và khiến xác sưng, phình ra.
Không có một yếu tố xác định cụ thể cho tốc độ phân hủy sau khi chết; một xác chết có thể chỉ còn bộ xương sau vài ngày hoặc còn gần như nguyên vẹn sau hàng nghìn năm.
8. Tình cảm với người vừa chết :
Giữa người sống và người chết là xa cách vĩnh viễn. Đó là hai cảnh đau khổ của con người nơi cõi trần: Sinh ly tử biệt (H: 生離死別,A: Separation in life and separation in death, P: Séparation du vivant et séparation de la mort). Sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sinh ly pha màu tử biệt.
Do vậy việc tổ chức tiến đưa người vừa chết rất được chú trọng. Cư tang 居喪 hay Tang lễ (H: 喪禮, A: Funeral rites, P: Rites funèbres) là nghi thức làm một đám tang. Trong đó có từ “tang” trong “Tang điền thương hải” (H: 桑田蒼海, A: The field of mulberry-tree changes into the blue sea, P: Le champ des muâriers change en mer bleue) là nói tắt câu: Tang điền biến vi thương hải, tức: ruộng dâu biến thành biển xanh suy rộng ra là: Cảnh đời luôn luôn biến đổi, không có gì gọi là bền vững vĩnh viễn.
Vì kính trọng tổ tiên, người đã mất nên khi nói về người quá cố, như là một đặc trưng của tiếng Việt, ngôn từ chuyên chở cả thái độ, tình cảm của người nói, nên để nói về cái chết, có rất nhiều từ, dưới đây chỉ liệt kê một số:
Tỏ ý Kính trọng: từ trần, khuất núi, qua đời, mất, ra đi, yên nghỉ, hi sinh, ngã xuống, nằm xuống, từ giã, đền nợ nước, trút hơi thở cuối cùng. Nói về vua chúa: băng hà.
Khi cần Kiêng kị: vĩnh biệt, trăm tuổi già, ngủ, đi (ra đi), lìa đời, sang bên kia thế giới, tim của ... đã ngừng đập.
Trong các Tôn giáo: lâm chung, về với Chúa, viên tịch, quy tiên, hồn lìa khỏi xác, hóa kiếp, mãn phần.
Trung lập: chết, thác, đi bán muối, qua đời, die (du nhập từ Anh ngữ), tuyệt mệnh, tử, lìa đời, im hơi, nhắm mắt xuôi tay, về với đất, chầu ông bà, thăm ông bà, chầu trời, chầu tổ tiên, chầu Diêm vương (Diêm chúa), mất mạng, trở về cát bụi.
Tỏ ý Khinh miệt: bỏ mạng, rồi đời, xong đời, đền tội, ngoẻo, ngủm, ngủm củ tỏi, tiêu, tiêu tán đường, nát gáo, ăn đất, ăn giun, đứt bóng.
Thông thường dùng một trong các từ: Tạ thế, Quy tiên, Quy tuyền, Trường miên, Tác cổ, Đăng hà, Trường từ…Trên thực tế, một số đám tôi thấy ban tang lễ và cả phường kèn dùng nhiều từ trong một câu (ví dụ “được tin cụ…lâm chung, tạ thế, qua đời…”) chắc họ muốn khoe chữ, không hiểu mà nói theo.
Khi bố vừa mất gọi là Tiên nghiêm¸ mẹ gọi là Tiên từ.
Trong hầu hết các nền văn hóa, trước khi kịp bắt đầu phân hủy, xác người chết đã được thực hiện một số nghi thức tống táng, thông thường nhất là hỏa thiêu hoặc chôn trong mộ (thường là trong một hố đào vào lòng đất gọi là huyệt mộ), ngoài ra còn táng trong quách, hầm mộ, mộ đá, hoặc tiểu đựng xương. Mộ rất đa dạng, từ đơn giản như một gò, ụ đất (đa số) đến vô số các kiến trúc lăng tẩm khác trên mặt đất (như lăng mộ Taj Mahal, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh). Nhưng cũng có khi, vì sợ đào mất xác nên phải có mộ giả mà không biết đích xác mộ thật ở đâu (mộ Tần Thuỷ Hoàng, Trần Hưng đạo, Quang Trung...)
Ở Tây Tạng, có một phương pháp gọi là lộ thiên táng hoặc điểu táng, đem xác người chết đặt trên núi cao để làm mồi cho các loài chim ăn thịt. Đôi khi điều này do các quan điểm tôn giáo cho rằng chim ăn mồi sẽ chuyên chở linh hồn về chốn thiên đường, nhưng cũng có khi chỉ đơn giản phản ánh một thực tế là đất đai Tây Tạng quá cứng khó đào chôn, cây cối cũng không nhiều để làm củi thiêu xác và theo tôn giáo tại đó (Phật giáo) thì sau khi chết, xác người chỉ là một cái vỏ rỗng không, không để làm gì nữa, có thể cho thú vật làm thức ăn. Mặt khác, ở một số nền văn hóa khác, người ta lại cố gắng làm chậm quá trình phân hủy của xác trước tang lễ (thậm chí có thể làm chậm quá trình phân hủy sau khi chôn cất), ướp xác hoặc tạo các mô mi. Nhiều nền văn hóa khác nhau có nhiều tập quán mai táng khác nhau. Trong một số các làng chài hoặc lực lượng hải quân, người ta còn thủy táng (đưa xác chết xuống sông hoặc biển). Một số vùng miền núi (Tây Nguyên), người ta treo quan tài lên cây.
Một cách mai táng mới là “mai táng sinh thái”. Nó bao gồm sự làm đông xác ở nhiệt độ rất thấp, sau đó tán thành bột bằng cơ chế rung, làm khô ở nhiệt độ lạnh, loại bỏ kim loại, sau cùng là thiêu hủy thành phần bột còn lại, chỉ chiếm khoảng 30% khối lượng cơ thể.
Gần đây còn có ý tưởng về “vũ trụ táng”: dùng tên lửa đưa một phần tro cốt vào không gian.
Nhiều người đã hiến toàn bộ hoặc một phần xác cho khoa học (nổi tiếng nhất là Einstein). Nhiều nhất là hiến xác cho các trường y để phục vụ nghiên cứu và giảng dạy môn giải phẫu. Tại Việt Nam, từ năm 1996, phong trào hiến xác cho khoa học đã bắt đầu phát triển với sự phát động của Giáo sư Nguyễn Quang Quyền ở trường Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Việc mai táng có thể được thực hiện bởi con cháu, người thân, dân làng, hoặc các công ty mai táng chuyên nghiệp, hoặc có sự tham gia của bệnh viện, tổ chức tôn giáo, hội từ thiện v.v.
Mồ mả thường được tập hợp trong một khu đất gọi là nghĩa trang (nghĩa địa). Dân gian cho rằng “người chết cần được mồ yên mả đẹp”, việc “động mồ động mả” có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của con cháu.
Dưới quan niệm của Việt tộc thì “nghĩa tử là nghĩa tận”, bao nhiêu hờn oán đều xóa bỏ khi đối tượng đã chết, vì chết là dứt nợ trần gian. Đồng thời cổ nhân cho rằng Sinh ký tử quy (“sống ở, thác về”), xem cuộc sống trên mặt đất chỉ là cõi trọ tạm bợ, chết không phải là hết nên tín ngưỡng dân gian tin vào linh hồn, người chết rồi thì linh hồn sẽ sống ở cõi âm, cũng sinh hoạt như ở dương thế, do đó có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, đầy tớ, áo quần, tiền, đô la âm phủ v.v. để “viện trợ” cho người chết. Do vậy người Việt coi việc tang ma (Tang là nương dâu chỉ sự biến đổi đau thương; Ma là sự mất đi, tiêu tan) là trọng sự, gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!